Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang? Trận Nào?

Trận đánh Thung Lũng Ia Drang nhiều người biết tới là trận đánh do Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ thực hiện từ ngày 14 đến 17 tháng 11 năm 1965. Tuy nhiên còn xảy ra một trận đánh khác cũng tại thung lũng Ia Drang mà ít ai biết đến do Lữ Đoàn Dù VN thực hiện ngay tiếp sau đó từ ngày 18 đến 26 tháng 11 năm 1965. Để cho giản tiện, xin gọi trận trước là trận Thung Lũng Ia Drang Mỹ và trận sau là trận Thung Lũng Ia Drang Việt.

Cả hai trận diễn ra tại vùng giữa chân rặng núi Chu Prong và sông Ia Drang chảy dọc gần bên theo hướng đông-tây; trận Thung Lũng Ia Drang Mỹ tại phía đông và trận Thung Lũng Ia Drang Việt tại phía tây gần biên giới Căm Bốt.

Cả hai trận được tung ra như là giai đoạn khai thác chiến thắng sau khi Quân Đoàn II thành công giải tòa áp lực của Việt Cộng vây lấn trại Pleime. Các đơn vị thuộc Quân Lực Mỹ và Quân Lực Việt Nam tiếp nối nhau truy đuổi địch quân trên đường rút lui về khu ẩn trú trong vùng rừng rậm thuộc rặng núi Chu Prong.

Nhiều danh xưng đã được xử dụng đến liên quan đến hai trận này, đặc biệt là Trận Đánh Pleime, Trận Đánh Ia Drang, Hành Quân Silver Bayonet, Chiến Dịch Pleiku… tạo thành một "màn sa mù về các chiến trận". Để làm sáng tỏ vấn đề, ta nên duyệt qua thời gian thứ tự các trận đánh xảy ra trong Chiến Dịch Pleime.

Bộ Ba Trận Đánh: Pleime, Chu Prong và Ia Drang

Các đơn vị Việt Cộng tấn kích vào trại Pleime ngày 19 tháng 10 năm 1965. Quân Đoàn II thực hiện Hành Quân Dân Thắng 21 để tiếp cứu và giải tỏa trại ngày 26 tháng 10, với sự yểm trợ của US Task Force Ingram. Sau khi địch quân rút lui, Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ được giao trọng trách truy kích địch quân với Hành Quân Long Reach. Cuộc hành quân này kéo dài đến ngày 26 tháng 11 và bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn một mang tên Hành Quân All the Way với Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ tảo thanh địch quanh vùng trại Pleime; giai đoạn hai mang tên Silver Bayonet I với Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Mỹ truy kích địch xa hơn đến tận chân rặng núi Chu Prong về hướng tây trại Pleime; chính là trong khuôn khổ của Hành Quân Silver Bayonet I mà Trận Đáng mang tên "Thung Lũng Ia Drang" diễn ra tại bãi đáp X-Ray và bãi đáp Albany dưới chân rặng núi Chu Prong từ ngày 14 đến 17 tháng 11; và giai đoạn ba mang tên Silver Bayonet II với Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh Mỹ với sứ mạng bảo vệ căn cữ hỏa lực tại LZ Crooks yểm trợ cho Lữ Đoàn Dù Việt Nam. Ngay kế tiếp sau đó, vào ngày 18 tháng 11, Lữ Đoàn Dù Việt Nam thay thế các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ truy kích tiếp tàn quân địch xa hơn về phía tây dọc theo sông Ia Drang với cuộc Hành Quân Thần Phong 7.

Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ

Tuy Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ xảy ra tại bãi đáp X-Ray và bãi đáp Albany này đã được cuốn sách của Tướng Hal Moore và ký giả Joseph Galloway tựa đề We Were Soldiers Once…And Young, và cuốn phim của Mel Gibson mang tên We Were Soldiers quảng bá rộng rãi trong dân gian, số đông quần chúng vẫn không hay biết đến một số chi tiết mà ngay cả giới quân sự Mỹ cũng làm lơ không đả động đến:

- Hành Quân Mỹ Long Reach, bao gồm Hành Quân All the Way và Hành Quân Silver Bayonet, là sáng kiến của Quân Đoàn II và nằm dưới sự kiểm soát của (tuy là không phải là dưới sự chỉ huy) của Quân Đoàn II, với Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ trong vai trò chính và Lữ Đoàn Dù VN trong vai trò lực lượng trừ bị;
- trong cuộc Hành Quân Long Reach, Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ được Biệt Cách Dù VN yểm trợ;
- vị trí đóng quân của Việt Cộng tại Chu Prong do Quân Đoàn II cung cấp cho Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ;
- và Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Việt tiếp nối và kết thúc Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ.

Tướng Westmoreland ý thức được là toàn bộ chiến dịch Pleime là một nỗ lực chung của hai Quân Lực Hoa Kỳ và Quân Lực Việt Nam, dưới sự kiểm soát hành quân của Quân Đoàn II. Ông viết trong Lời Tựa của Why Pleime:

Ngày 10 tháng 10 năm 1966

Đối với việc xử dụng các lực lượng phối hợp, trận đánh Plei Me là một trường hợp điển hình.

- Các thành quả nổi bật của các giai đoạn sau có thể, có lẽ, không bao giờ thể hiện được nếu như không có đầu óc thẩm định và con mắt nhìn xa của giới lãnh đạo Việt Nam.
- Nỗ lực chuẩn bị tiên khởi trên chiến trường, mở đường cho việc xử dụng Sư Đoàn 1 Không Kỵ, đã do các lực lượng Việt Nam hoàn thành.
- Cũng vậy, thành quả khai thác của giai đoạn chót đã do Lữ Đoàn Dù Việt Nam phần lớn hoàn thành.
- Sự hữu hiệu của nỗ lực khéo tổ chức, ăn khớp mật thiết, cộng tác phối trí chung quả là hiếm thấy trong chiến tranh hiện đại.

"Nỗ lực khéo tổ chức, ăn khớp mật thiết, cộng tác phối trí chung " này, theo khái niệm của Quân Đoàn II bao gồm các đặc điểm sau đây: "phối hợp các công tác tình báo và yểm trợ; chia sẻ khái niệm hành quân và kết quả; vùng hành quân riêng rẽ; bộ tư lệnh riêng rẽ; điều quân riêng rẽ; hành động riêng rẽ; và trừ bị riêng rẽ."

Các bài tường thuật thuộc giới Mỹ về Chiến Dịch Pleiku-Iadarang cho cảm tưởng đây là một cuộc hành quân Mỹ hoàn toàn. Tuy nhiên, trong thực tế các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ hành quân với sự yểm trợ của các toán Biệt Cách Dù VN; các toán này thực hiện công tác thăm dò các bãi đáp, thiết kế an ninh tại các bãi đáp trước khi quân lính Mỹ đổ bộ, và sau khi quân lính Mỹ đổ bộ, các toán này tiến sâu tuần tiễu vào lòng đất địch quân. Một điểm đáng ghi nhận là các hoạt động này của các toán Biệt Cách Dù VN không được tiết lộ từ các nguồn quân sự Mỹ hay Nam Việt Nam mà là từ một nguồn quân sự Việt Cộng; tài liệu này nghiên cứu về:

Các đặc điểm của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ
Qua các Hành Động của SĐ tại Pleime và Ia Drang
Từ 24 tháng 10 đến 19 tháng 11 năm 1965

I. Các Hành Động Chính

a) Đợt 1: hợp tác với các quân lính ngụy để giải tỏa vây lấn tại Pleime (24 đến 28 tháng 10 năm 1965).
b) Đợt 2: xử dụng những đơn vị tăng phái nhỏ và phối hợp với Biệt Cách Dù ngụy để thực hiện những cuộc tấn kích vào hậu cứ của ta (28 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1965).
c) Đợt 3: xử dụng những lực lượng lớn để phát động những cuộc tấn kích sâu vào hậu cứ của ta tại Chu Prông và Ia Drang (14 đến 19 tháng 11 năm 196̀5).
II. Các Đặc Điểm Chiến Thuật

Qua các hoạt động của chúng tại Pleime và Ia Drang, Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ đã thực hiện những loại hành quân sau đây:
- Tăng cường các quân lính ngụy để giải tỏa vây lấn tại Pleime.
- Thực hiện nhửng hoạt động riêng rẽ tại một vùng riêng rẽ hay phối hợp với những toán tăng phái nhỏ của Biệt Cách Dù ngụy.
(…)
b) Đổ bộ thẳng bằng "nhảy cóc" vào hậu cần của ta bằng trực thăng (28 tháng 10 đến 10 tháng 11 năm 1965).
- các lực lượng xử dụng: từ một tiểu đoàn đến một đại đội của lính Mỹ hay hai đại đội của lính Mỹ phối hợp với Biệt Cách Dù ngụy.
(…)
II - Các Mánh Lới Chiến Thuật
a) Trước khi đổ bộ. Thám sát các bãi đổ bộ bằng nhiều phi vụ thám sát hay bằng các toán nhỏ Biệt Cách Dù ngụy.
(…)
c) Đổ bộ quân. - Biệt Cách Dù ngụy hay các đơn vị thám sát Mỹ luôn đổ bộ trước để giữ an ninh bãi đổ bộ trước khi bộ binh, đơn vị yểm trợ và sở chỉ huy đổ bộ.
(…)
d) Sau khi đổ bộ quân. - Biệt Cách Dù ngụy thường tiến xa tuần tiễu.
(…)
28 tháng 12 năm 1965
Trưởng Ban 2
Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3

Trung Tướng Harold Moore, khi dẫn đầu toán quân thuộc Tiểu Đoàn 1/7 Kỵ Binh Mỹ nhảy xuống bãi đáp X-Ray, không nhắc tới ông có được sự yểm trợ của Biệt Cách Dù VN hay không, nhưng ông nhìn nhận là một đội toán kiểm thính điện đài của Quân Đoàn II cung cấp tin tình báo về vị trí của quân Việt Cộng ẩn nấu tại rặng núi Chu Prong:

Trung Sĩ Nhất Plumley và tôi nhảy ra khỏi giường bố tại trại quân Pháp cũ ngoài hàng rào kẽm gai tại trại Lực Lượng Pleime. Đó là vào 4 giờ 30 sáng chủ nhật 14 tháng 11, và Tiểu Đoàn 1 thuộc Lữ Đoàn 7 có nhiều công tác phải thực hiện trong ngày hôm nay (…) Đang khi nhấm nháp một tách cà phê, Matt Dillon chuyển cho tôi một tin tức hay ho là một toán kiểm thính điện đài biệt phái tại bộ tư lệnh của ta nghe bắt được. Dillon nói: “Họ nghe bắt được một bản thông tin dưới dạnh mật mã bằng tiếng Quan Thoại, có vẻ là một bản báo cáo, từ một vị trí đâu đó trên lằn thẳng từ trại Pleime nhắm qua một bãi quang tại chân núi Chu Prong. Viên trung úy tình báo trưng ra một bản đồ có ghi một lằn bút trên đó. Anh ta nói điện đài phát tín hiệu nằm đâu đó trên lằn này. Tôi không nhớ rõ̉ bản thông tin này dài bao nhiêu - điều này không khiến tôi mấy quan tâm. Điều quan trọng là hướng phát xuất của tín hiệu. Viên trung úy nói ông nghĩ có thể có một trung đoàn Việt Cộng đâu đó gần núi Chu Prong." (Lt. Gen. Harold Moore and Joseph Galloway, We Were Soldiers Once…and Young, 63-64)

Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Việt

Có hai bài tường thuật kể lại Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang do Lữ Đoàn Dù VN thực hiện: một bài của Tướng Schwarzkopf, và một bài của Quân Đoàn II.

Tướng Schwarzkopf kể lại sự tham gia của ông trong trận đánh này với tư cách một cố vấn của Trung Tá Ngô Quang Trưởng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn Dù, trong cuốn hồi ký "It Doesn't Take a Hero" (2002):

Quân Dù được lệnh ngăn chận các trung đoàn Bắc Việt bị đánh bại ở Thung Lũng Ia Drang đang lẩn trốn trở qua Cam Bốt. Tôi đang chập chờn ngủ sau một bữa ăn no nê đánh chén cà ri gà và rượu bia th́ bị đánh thức phải đi ra phi trường. Trưởng đă tụ tập một lực lượng to tát khác thường với khoảng chừng 2000 binh sĩ Dù để đi tới Ia Drang sáng hôm sau, và đă chọn tôi làm cố vấn cho ông.
Chúng tôi được máy bay vận tải đưa tới sân bay vùng đất đỏ Đức Cơ, nơi tôi đă từng đồn trú trước đây, và từ đó trực thăng chở chúng tôi xuôi Nam xuống vùng thung lũng. Ngay khi chúng tôi nhảy xuống khỏi trực thăng, chúng tôi liền đụng độ giao tranh với địch. Thung lũng rộng khoảng 12 mile tại địa điểm Thung Lũng Ia Drang chảy theo hướng Tây về phiá Cam Bốt - và đâu đó trong vùng rừng già đó đại đơn vị địch quân đang di động lẩn trốn. Chúng tôi đă đáp xuống phiá Bắc, và Trưởng ra lệnh cho các tiểu đoàn băng qua sông Ia Drang và đóng chốt dọc theo rặng núi Chu Prong với những sườn núi cao chạy hướng về phiá Nam. Thật là hấp dẫn quan sát cách Trung Tá Trưởng hành quân. Đang khi chúng tôi lần bước, ông bỗng ngừng lại nghiên cứu bản đồ, và thỉnh thoảng ông lại chỉ ngón tay trên bản đồ và nói, "tôi muốn anh cho nã pháo vào đây." Thoạt tiên tôi ngờ vực, nhưng vẫn cứ kêu gọi pháo binh bắn theo lời yêu cầu; khi chúng tôi tới vùng đó, chúng tôi thấy xác địch nằm ngổn ngang. Chỉ bằng cách h́nh dung địa thế và dựa vào 15 năm kinh nghiệm đánh giặc, ông chứng tỏ khả năng đặc biệt tiên đoán ư đồ địch.
Khi bộ chỉ huy lập trại đóng quân đêm đó, Trưởng mở bản đồ ra, châm một điếu thuốc, và phác họa kế hoạch chiến trận của ḿnh. Khoản rừng giữa vị trí chúng tôi đang đóng quân tại các sườn núi và con sông, Trưởng giải thích, tạo nên một hành lang thiên nhiên - con đường Bắc Quân thể nào cũng chui đầu vào. Trưởng nói, "Tảng sáng, chúng ta sẽ phái một tiểu đoàn tới địa điểm này, về phiá trái, làm lực lượng nút chận giữa sườn núi và con sông. Vào khoảng 8 giờ sáng ngày mai, tiểu đoàn này sẽ đụng độ mạnh với địch quân. Tiếp đó tôi sẽ gửi một tiểu đoàn khác tới địa điểm này, về phiá phải. Tiểu đoàn này sẽ chạm địch vào khoảng 11 giờ. Tôi muốn anh ra lệnh pháo binh sẵn sàng nă vào vùng này, về phiá trước mặt chúng ta," Trưởng nói, "và rồi chúng ta sẽ tấn công với tiểu đoàn thứ ba và thứ tư của chúng ta đánh xuống mạn sông.
Tôi chưa từng nghe thấy điều lạ lùng như vậy tại West Point. Tôi nghĩ bụng, "Cái ǵ mà 8 giờ rồi 11 giờ? Làm sao mà có thể hoạch định thời khóa biểu cho trận đánh như vậy được?" Nhưng tôi cũng nhận ra kế hoạch của Trưởng: Trưởng đă tái tạo chiến thuật Hannibal đă dùng vào năm 217 trước tây lịch, khi Hannibal bao vây và tiêu diệt các đơn vị viễn chinh La Mă tại bờ sông Trasimene.
Nhưng, Trưởng nói thêm, chúng ta có một điều khó xử: quân Dù Việt Nam được đưa vào chiến dịch này v́ cấp trên lo ngại các lực lượng Mỹ khi đuổi theo địch quân có thể mạo hiểm tiến tới quá sát ranh giới Cam Bốt. Trưởng nói, "Theo bản đồ của anh, biên giới Căm Bốt nằm tại đây, 10 cây số về phiá Đông nếu so với bản đồ của tôi. Để có thể thực hiện kế hoạch của tôi, phải dùng bản đồ của tôi thay v́ của anh, nếu không chúng ta không tài nào đánh ṿng sâu đủ để đặt lực lượng nút chận đầu tiên của chúng ta. Như vậy, Thiếu Tá Schwarzkopf, anh cố vấn sao đây?"
Viễn ảnh để địch quân chạy thoát trở lại khu an toàn, để rồi khi hồi phục lại sức, chúng lại tấn công trở lại khiến tôi sôi gan lên cũng giống mọi quân sĩ khác. Một số địch quân này đă đụng độ với tôi bốn tháng trước đây tại Đức Cơ; tôi không muốn phải giao tranh lại với chúng bốn tháng tới đây. Như vậy tội ǵ tôi phải cho là bản đồ của tôi chính xác hơn bản đồ của Trưởng cơ chứ?
"Tôi cố vấn chúng ta dùng lằn biên giới vạch theo bản đồ của Trung Tá."
Sau khi ban bố các lệnh tấn công, Trưởng ngồi nghiên cứu bản đồ với điếu thuốc lá trên môi. Chúng tôi duyệt đi duyệt lại kế hoạch thâu đêm, mường tượng mọi diễn tiến của trận đánh. Khi trời hừng sáng, chúng tôi phái Tiểu Đoàn 3 tiến quân. Họ tới vị trí và, y như là, đúng 8 giờ sáng, họ gọi điện về báo cáo đụng địch mạnh. Trưởng phái Tiểu Đoàn 5 tiến về hướng phải. Vào 11 giờ, họ báo cáo chạm địch mạnh. Đúng như Trưởng tiên đoán, trong khu rừng phiá dưới chúng tôi, địch đụng đầu với Tiểu Đoàn 3 tại ven bờ và quyết định, "Tụi ḿnh không thể thoát ngă này. Tụi ḿnh sẽ lộn trở lui." Quyết định này trái nguyên tắc căn bản của thế tháo lui và lẩn tránh, tức là chọn con đường bất tiện nhất để giảm thiểu nguy cơ chạm trán với địch quân đang nằm chờ. Nếu chúng chọn leo rặng núi Chu Prong ra khỏi thung lũng th́ có lẽ chúng thoát được nạn. Trái lại, chúng đă lần theo thung lũng, đúng như Trưởng tiên đoán, và do đó bị chúng tôi đóng vào hộp. Trưởng nh́n tôi và nói, "Hăy cho nă pháo của anh." Chúng tôi pháo nửa tiếng. Tiếp đó Trưởng ra lệnh hai tiểu đoàn c̣n lại đánh xuống sườn đồi; súng ống khai hỏa rất nhiều trong khi chúng tôi theo đoàn quân tiến xuống.
Vào khoảng 1 giờ trưa, Trưởng tuyên bố, "Ô-kê, chúng ta dừng chân tại đây." Trưởng chọn một băi quang xinh xắn, và chúng tôi ngồi xuống ăn trưa cùng với ban tham mưu! Đang ăn nửa chừng , Trưởng bỗng đặt bát đũa xuống và ra lệnh vào máy phát thanh. "Trung Tá làm ǵ vậy?" tôi hỏi. Trưởng ra lệnh cho binh sĩ lục lạo chiến trường để thu lượm súng ống: "Chúng ta triệt hạ nhiều địch quân, những đứa thoát chết vứt bỏ lại súng ống khi tháo chạy."
Lạ nhỉ, Trưởng có nh́n thấy cái quái ǵ đâu! Mọi điều đều bị rừng cây che đậy. Nhưng chúng tôi ở nán lại băi quang trọn ngày c̣n lại, và quân lính ôm về từng bó súng ống chất thành đống trước mặt chúng tôi. Tôi khoái quá - chúng ta đă gặt hái một chiến công hiển hách! Nhưng Trưởng th́ lại ngồi yên, thản nhiên hút thuốc.

Quân Đoàn II thuật lại trận đánh này như sau:

Chương VI
Đợt 3
Hành Quân Thần Phong 7
Từ 18 đến 26 Tháng 11 Năm 1965
Đòn Đánh Kết Liễu Tại Ia Drang

"Cho Chúng Tiêu Tùng Luôn"

Trong năm ngày liên tiếp, từ 15 đến 19 tháng 11, các phóng pháo cơ B52 đã bay tổng cộng 96 phi vụ. Từng khu vực một, các khu vực của rặng núi Chu Prông - mỗi khu 20 dậm vuông - tuần tự trải qua một cơn động đất từ Tây sang Đông. Các công sự và hầm hố trước nay từng chống cản các vụ đánh phá của phi cơ tác chiến và pháo binh bắt đầu bị các trái bom 750 cân anh trực tiếp đánh rập. Lớp cây lá rừng rậm không còn hữu hiệu cho công việc ẩn núp lẫn bao che. "Cửa hậu" vào Căm Bốt bị đóng lại và để trốn thoát, tàn quân Việt Cộng chỉ còn lại thung lũng eo hẹp của Ia Drang.
Ước tính tình báo về khả năng địch, thực hiện vào ngày 17 tháng 11 chỉ cho thấy là gần 2/3 lực lượng của họ bị tiêu hao trong những trận giao tranh ở Đợt I và Đợt II.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nghĩ là đến lúc tung lực lượng trừ bị vào để chấm dứt trận chiến đã kéo dài khoảng một tháng. Ngoài bị tổn thất nặng nề, địch buộc phải xa vào bẫy các lực lượng của ta giăng ra và xô đẩy vào các lộ trình rút lui mà chúng ta dự kiến.
Lần này nỗ lực chính được thực hiện bởi Lữ Đoàn Dù QLVNCH với sứ mạng triệt hủy các đơn vị Việt Cộng đào tẩu và tất cả các cơ sở xung quanh thung lũng Ia Drang. Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ trước nay gánh chịu tấn công sẽ tiếp tục tạo áp lực từ Đông sang Tây và cung ứng pháo yểm cho Lữ Đoàn Dù.
Cuộc hành quân mang tên "Thần Phong 7" khởi động chiều ngày 18 tháng 11 khi lữ đoàn đươc trực thăng vận tới vùng hành quân, ngay sau khi tới Pleiku.

Tôi xin lấy cơ hội này để tuyên dương thành quả vượt bực của Phi Đội C130 của Phi Đoàn 7 KQHK đã vận chuyển trong vài tiếng đồng hồ các đơn vị sau đây:
- Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù,
- Ban Chỉ Huy các Chiến Đoàn 1 và 2 Dù,
- Năm tiểu đoàn Dù: 1, 3, 5, 7 và 8
từ các nơi khác nhau, như Sài Gòn, Biên Hòa, Vũng Tàu và Phú Yên tới Pleiku. Chính là nhờ vào công lao đóng góp của họ mà cuộc hành quân đã có thể khởi sự đúng vào ngày giờ ấn định.

Mạnh Ai Nấy Thoát Thân

Trong mười ngày "tìm và diệt" - từ ngày 18 đến 26 tháng 11 - nhiều cuộc giao tranh xảy ra trong thung lũng sông Ia Drang giữa các đơn vị Dù và địch. Nhưng phần đông là những cuộc đụng độ nhỏ với các phần tử Việt Cộng tản mác.
Đợt ba của trận Pleime mang tính chất cá biệt không những vì địch tháo chạy mà cũng vì tinh thần xuống dốc của quân lính. Vô số vũ khí Việt Cộng ̣được tìm thấy quăng vứt vào bụi cây dọc theo đường mòn hay xuống lòng suối.

Cuộc giao tranh lớn nhất trong đợt ba xảy ra vào lúc 1440 giờ ngày 20 tháng 11, tại Bắc sông Ia Drang. Lần này là lần thứ hai trong trận Pleime Việt Cộng rơi vào ổ phục kích của ta và hứng chịu tổn hại nghiêm trọng (phục kích lần thứ nhất vào ngày 3 tháng 11, bởi các phần tử của Sư Đoàn 1 Không Ky). Trung Đoàn 32 Bắc Việt không can dự và không hề hấn trong suốt đợt hai, cuối cùng bị tìm thấy và buộc phải chiến đấu, mặc dù cố né tránh đụng độ càng nhiều càng tốt.
Sáng ngày đó, tiểu đoàn 3 Dù được lệnh di chuyển về hướng nam để giao tiếp với tiểu đoàn 6. Cả hai đơn vị đã thực hiện một cuộc truy lùng kỹ càng tại hai trục khác nhau từ bãi đổ bộ về hướng tây. Trong khi di chuyển tiểu đoàn 3 bị một đơn vị địch cấp tiểu đoàn âm thầm theo dõi. Nhưng một khi cuộc giao tiếp hoàn tất giữa hai tiểu đoàn của ta, đơn vị Việt Cộng này bị kẹt nội trong xạ trường của tiểu đoàn 3 và ngay trong trọng tâm của một ổ phục kích. Gần 200 Việt Cộng bị giết trong cuộc giao tranh tình cờ này.
Trong khi lùng kiếm các cơ sở địch trong vùng hành quân, Lữ Đoàn Dù phá hủy 3 trung tâm huấn luyện, một kho dấu quân cụ và 75 mái nhà.
Các cuộc hành quân tìm và diệt cũng được thực hiện phía nam sông Ia Drang nhưng chỉ có những đụng độ nhỏ với các phần tử Việt Cộng xảy ra.
Ngày 24 tháng 11, vì không còn đụng độ với địch, Lữ Đoàn Dù rút ra khỏi vùng hành quân, chấm dứt đợt ba của Trận Pleime với 265 Việt Cộng chết (đếm xác), 10 bị bắt và 58 vũ khí tịch thâu.

Xem xét kỹ lưỡng hai bài tường thuật cho thấy Tướng Schwarzkopf mô tả cuộc phục kích thứ hai xảy ra ngày 24 tháng 11, với Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Nhiệm 1 của Trung Tá Trưởng án ngữ trên đỉnh núi ngày hôm trước (tại 231115H như ghi trên bản đồ) và điều động Tiểu Đoàn 3 Dù về phía trái, tiểu đoàn này đụng độ với địch lúc 0845G (tại 240845H như ghi trên bản đồ) và điều động Tiểu Đoàn 5 Dù về phía phải, tiểu đoàn này đụng độ với địch lúc 1050G (tại 241050H như ghi trên bản đồ); và Quân Đoàn II chỉ nói tới cuộc phục kích đầu xảy ra ngày 20 tháng 11 vào lúc 1440G (tại 201440H như ghi trên bản đồ).

Như vậy, Hành Quân Thần Phong 7 - trận đánh Thung Lũng Ia Drang Việt - xảy ra như sau: Ngày 18/11/1965, từ 1500G đến 1800G, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1 cùng với Tiểu Đoàn 3, 5 và 6 được trực thăng vận đến thung lũng Ia Drang. Từ địa điểm tập trung này, Tiểu Đoàn 3 tiến bước về hướng Tây; không mấy chốc, tiểu đoàn này bị một tiểu đoàn địch âm thầm bám sát theo. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 6 cũng được phái đi về hướng tây, song song với đường đạo của Tiểu Đoàn 3, nhưng xuống về hướng nam một tí. Ngày 19/11, vào lúc 1100G, Tiểu Đoàn 3 được lệnh bắt nối với Tiểu Đoàn 6. Ngày 20/11, vào lúc 1440G, Tiểu Đoàn 3 và 6 thành công phục kích tiểu đoàn địch quân tại địa điểm hai Tiểu Đoàn 3 và 6 kết tụ lại. Ngày 20/11, vào lúc 1745G, Tiểu Đoàn 8 được thả vào Thung Lũng Ia Drang. Ngày 22/11, vào lúc 1100G, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 7 được thả xuống cùng địa điểm. Ngày 22/11, vào lúc 1330G, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1, Tiểu Đoàn 3, 5 và 6 giao kết với các đơn vị mới tới. Từ địa điểm tập trung này, các đơn vị leo núi và tới đỉnh núi ngày hôm sau 23/11 vào lúc 1115G. Ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 3 được phái về phía trái và đụng độ địch quân vào lúc 0845G; Tiểu Đoàn 5 được phái về phía phải và đụng độ địch quân vào lúc 1050G. Tiểu Đoàn 7 và 8 xông xuống núi và địch quân bị đóng hộp với lưng áp vào sông Ia Drang.

Tướng Schwarzkopf phục lăn trước tài năng quỉ khốc thần sầu của Trung Tá Ngô Quang Trưởng ̣đánh hơi các vị trí và đoán biết các hành tung của địch quân:


- Thật là hấp dẫn quan sát cách Trung Tá Trưởng hành quân. Đang khi chúng tôi lần bước, ông bỗng ngừng lại nghiên cứu bản đồ, và thỉnh thoảng ông lại chỉ ngón tay trên bản đồ và nói, "tôi muốn anh cho nă pháo vào đây." Thoạt tiên tôi ngờ vực, nhưng vẫn cứ kêu gọi pháo binh bắn theo lời yêu cầu; khi chúng tôi tới vùng đó, chúng tôi thấy xác địch nằm ngổn ngang. Chỉ bằng cách h́nh dung địa thế và dựa vào 15 năm kinh nghiệm đánh giặc, ông chứng tỏ khả năng đặc biệt tiên đoán ư đồ địch.
- Tôi chưa từng nghe thấy điều lạ lùng như vậy tại West Point. Tôi nghĩ bụng, "Cái ǵ mà 8 giờ rồi 11 giờ? Làm sao mà có thể hoạch định thời khóa biểu cho trận đánh như vậy được?"
- Trưởng tiên đoán, và do đó địch bị chúng tôi đóng vào hộp.
- Lạ nhỉ, Trưởng có nh́n thấy cái quái ǵ đâu! Mọi điều đều bị rừng cây che đậy.

Tướng Schwarzkopf đâu có ngờ là các toán Biệt Cách Dù hành quân tàng hình giữa lòng địch, bám theo sát địch quân trong khi chúng di chuyển và hành động như tai mắt của Trung Tá Trưởng, báo cáo thường xuyên cho ông tất cả mọi vị trí và di chuyển của địch quân; và ông đâu có hay là "địch quân bị sa vào các bẫy xập do các lực lượng ta thiết lập và bị dồn vào các đường lối rút quân mà chúng ta (Quân Đoàn II) đã dự kiến".

Nhờ thu thập và phân tách thông tin tình báo cách chính xác, Quân Đoàn II đã thực hiện được một cuộc tấn kích ngắn gọn, như thể dùng một con dao giải phẩu, nhắm vào hai tiểu đoàn Việt Cộng - 635 và 334 - thành phần còn lại của mười hai tiểu đoàn thuộc ba trung đoàng - 320, 33 và 66 - mà Mặt Trận B3 Việt Cộng tung vào Chiến Dịch Pleime. Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ được tung ra trước đó dựa vào thông tin tình báo nông cạn khiến cho Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ Mỹ bị địch phục kích tại bãi đáp X-Ray và Tiểu Đoàn 2/7 Kỵ Binh Mỹ bị địch phục kích tại bãi đáp Albany. Trái lại, Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Việt thành công phục kích địch quân tại hai địa điểm, lần đầu vào ngày 20 tháng 11 và lần sau vào ngày 24 tháng 11. Thử hình dung xem tai họa nào giáng xuống trên đầu 5 tiểu đoàn Dù VN, vì lẽ nếu như thông tin tình báo tính sai, các tiểu đoàn này sẽ bị thả vào một vùng còn đầy dẫy lực lượng địch tương đương với một trung đoàn, như trong trường hợp cuả Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ: các tiểu đoàn này sẽ bị nghiền nát và nuốt tươi vì họ không có được tính di động mà các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ có được.

Giải Tỏa "Sương Mù Lịch Sử"

Trận Đánh Thung Lũng Việt quả thật là một chiến thắng quân sự to lớn (Tướng Schwarzkopf đã phát biểu: Tôi khoái quá - chúng ta đã gặt hái một chiến công hiển hách!) Vậy mà, cho đến ngày hôm nay, không mấy ai biết đến trận đánh này. Các tác giả và sử gia Việt Cộng lẫn Mỹ dường như chôn vùi nó dưới lớp đặc "sương mù của lịch sử". Việt Cộng thì viết về Chiến Dịch Plâyme-Iadrang; người Mỹ thì viết về Chiến Dịch Pleiku-Iadrang ; cả hai bên đặt trọng tâm vào trận đánh Iadrang, đồng thời coi nhẹ trận đánh Pleime, coi đó như là giai đoạn sơ khởi cho trận đánh hoành tráng tại Iadrang, và hoặc lướt phớt qua hay hoàn toàn làm lơ trận đánh Iadrang do Lữ Đoàn Dù VN thực hiện. Hai bản đồ dưới đây mô tả về trận đánh Iadrang do Ban Sử của West Point thực hiện minh họa cách hùng hồn cái lối nhìn thiên lệch này.

trong đó trận đánh Pleime được coi như "phần mở màn" của trận đánh Ia Drang.

Chúng ta cần phải chấn chỉnh lại sử liệu cho trung thực: Chiến Dịch Pleime gồm ba trận đánh: trận đánh Pleime xảy ra trong khuôn khổ Hành Quân Dân Thắng 21 do các đơn vị VNCH thực hiện, trận đánh Chu Pong - thường được biết như là "trận đánh Ia Drang" - xảy ra trong khuôn khổ Hành Quân Long Reach do các đơn vị Mỹ thực hiện và trận đánh Ia Drang xảy ra trong khuôn khổ Hành Quân Thần Phong 7 do các đơn vị VNCH thực hiện.

Trước khi kết thúc, có một điểm cần lưu ý: Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, là người điều động toàn bộ Chiến Dịch Pleime. Chính Đại Tá Hiếu đích thân phối hợp các động tác của

- Chỉ Huy Trưởng Chiến Đoàn Thiết Giáp-Bộ Binh,
- các Tiểu Đoàn Trưởng của các Tiểu Đoàn 21, 22 Biệt Động Quân và Tiểu Đoàn 1/42 Bộ Binh,
- các Tiểu Đoàn Trưởng của Chiến Đoàn Alpha Thủy Quân Lục Chiến VN,
- các Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 1 Ký binh Mỹ,
- các Tiểu Đoàn Trưởng Pháo binh Mỹ,
- các Phi Công thuộc Không Lực và Lục Quân Mỹ,
- các Sĩ Quan Quan Sát Viên Không Lực Mỹ,
- các Sĩ Quan Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ,
- các Sĩ Quan Biệt Cách Dù VN,
- và các Tiểu Đoàn Trưởng của Lữ Đoàn Dù VN.

Điểm đặc biệt cần nêu lên thêm là Đại Tá Hiếu đã khôn khéo đoán biết Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3, thay vì dùng chiến thuật tĩnh động như thường khi, lần này chuyển qua chiến thuật "phục kích di động" tại Pleime; và đã đối phó lại với một phương thức phản phục kích bằng cách trì hoãn bước tiến quân của Chiến Đoàn Thiết Giáp Bộ Binh vài ngày, từ 21 tháng 10 mãi đến ngày 23. Hơn nữa, chính Đại Tá Hiếu đã dự kiến cách chính xác ngã ngách rút quân của địch và đưa Lữ Đoàn Dù VN từ tận Sài Gòn đến khu rừng rú bát ngát của rặng núi Chu Prong, thả quân trúng phóc vào các vị trí ngăn cản địch với thành quả đóng hộp phục kích hai tiểu đoàn sống sót của Việt Cộng.

Nguyễn Văn Tín
06 tháng 03 năm 2008

Tài liệu tham khảo

- Chính

- Sách báo

* Pleiku, the Dawn of Helicopter Warfare in Vietnam, J.D. Coleman, St. Martin's Press, New York, 1988.

* We Were Soldiers Once… and Young, General Harold G. Moore and Joseph L. Galloway, Random House, New York, 1992.

* "First Strike at River Drang", Military History, Oct 1984, pp 44-52, Per. Interview with H.W.O Kinnard, 1st Cavalry Division Commanding General, Cochran, Alexander S.

* The Siege of Pleime, Project CHECO Report, 24 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

* Silver Bayonet, Project CHECO Report, 26 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

- Việt Cộng

generalhieu