Trong cuốn sách, Chiến thắng Plây Me: ba mươi năm sau nhìn lại: tài liệu hội thảo khoa học(*)), Thiếu Tướng Bùi Nam Hàh lên tiếng góp ý với bài, Từ Plây Mê-Ia Đrăng đến Sa Thầy, Đắc Tô, Một Chặng Đường Phát Triển Đầy Sáng Tạo Trong Nghệ Thuật Đánh Mỹ Ở Chiến Trường Tây Nguyên. Ông tuyên bố là một người trong cuộc, với cương vị Tham Mưu Trưởng mặt trận, góp một vài nhận xét về chiến dịch . Xin nói ngay là bài có khá nhiều nhận xét sai lầm và nét nổi bật chung của toàn bài là nặng phần tuyên truyền cổ võ ba quân hơn là phân tách khách quan thuần túy quân sự. Hành quân Long Breach Ngay từ đầu bài, Tướng Nam Hà đã sai lầm trầm trọng khi gọi tên của cuộc hành quân Mỹ nhằm “tìm và diệt” đối phương là Long Breach. Đây không phải lỗi in ấn chính tả, vì vài đoạn văn sau, ông viết:
Không hiểu sao mà Tướng Nam Hà lại có thể “tạm dịch Long Breach là đốt phá”? Tuy nhiên xin bỏ qua chuyện nhỏ này vì tên đúng của cuộc hành quân là Long Reach do Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đặt tên cho cuộc hành quân khi giao cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ nhiệm vụ truy đuổi tàn quân địch sau trận vây lấn và phục kích tại trại Pleime. Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, viết trong cuốn, Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, nơi trang 101:
Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ thực hiện cuộc hành quân Long Reach với ba cuộc hành quân All the Way (27/10-9/11, Lữ Đoàn 1 Không Kỵ), Silver Bayonet I (9/11-17/11, Lữ Đoàn 3 Không Kỵ), và Silver Bayonet II (17/11-26/11, Lữ Đoàn 2 Không Kỵ). Khi thảo bản tường trình sau trận đánh, phía Mỹ cải danh xưng Long Reach thành Pleiku Campaign, có lẽ với dụng ý xóa bỏ dấu vết lệ thuộc vào quyền lãnh đạo cuộc hành quân của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Chủ yếu chiến dịch Plây Me là quân Mỹ Tướng Nam Hà nhận xét:
Tướng Nam Hà khẳng định như vậy là quá xa sự thật. Chủ đích nguyên thủy của chiến dịch Plây Me là triệt hủy toàn bộ lực lượng của Quân Đoàn II bằng thế “công đồn đả viện”. Chính vì muốn tránh đụng độ lớn với quân Mỹ mà thay vì phát động chiến dịch được dự tính vào cuối năm 1965 hay đầu năm 1966 thì lại khởi động tiến công sớm hơn ngày 19 tháng 10 năm 1965 cốt ý là hy vọng Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ mới đổ bộ lên bờ biển Qui Nhơn cuối tháng 9 và đang rục rịch khăn gói lên An Khê lập trại vào giữa tháng 10 chưa sẵn sàng ứng chiến, mặc dù Trung Đoàn 66 mãi đến đầu tháng 11 mới lê gót được đến mật khu Chu Prong. Rồi khi cho lệnh hai Trung Đoàn 32 và 33 rút lui về mật khu Chuprong-Iadrang với chủ đích kết tụ với Trung Đoàn 66 tiến công trại Pleime lần thứ hai, và lần này sẽ đánh dứt điểm chứ không đánh viện. Quả thật vậy, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 đã không tổ chức đối đầu ứng chiến với Lữ Đoàn 1 Không Kỵ khi bị lùa về mật khu Chu Prong mà chỉ tập trung quân lại nhằm tấn công trại Pleime lần thứ hai khi nhầm tưởng Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh thay thế cho Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh đánh mất tung tích của các đơn vị mình nên Mặt Trận B3 liền cải đổi thế thủ qua thế công, để rồi bị quân Mỹ đột kích bất thần tại chân rặng núi Chu Prong đang khi các đơn vị chuẩn bị lên đường tiến công trại Pleime tại các địa điểm xuất quân. Thành thử Bộ Tư Lệnh B3 rút quân về Chu Prong không phải là dụ quân Mỹ vào để đánh mà là để chuẩn bị nỗ lực triệt tiêu trại Pleime trong một cuộc tiến công thứ hai. Phi Pháo Mỹ Tướng Nam Hà nhận xét:
Tướng Nam Hà quả thật không ngờ là phía Mỹ-ngụy đã chủ yếu đánh bại đối phương bằng oanh tạc B-52, chứ không phải bằng bộ chiến và pháo binh. Đại Tá Hiếu viết trong cuốn , Why Pleime , nơi chương VI:
Nắm thắt lưng địch mà đánh Tướng Nam Hà nhận xét:
Có ba tình huống trong đó phía Mỹ-ngụy đã không một tị “lúng túng” hoá giải thế “Nắm thắt lưng địch mà đánh”: - (1) Chiến thuật Việt Cộng xử dụng để triệt hạ thiết đoàn tiếp cứu ở địa điểm phục kích là đặt để các bộ đội thiết bị lưỡi lê và dao găm tiến sát tới cạnh các xe tăng và xe bọc sắt trực sẵn để giết hại các binh sĩ của thiết đoàn sẽ bấn loạn tinh thần tự nhiên chui ra khỏi lòng xe và nhảy xuống đất để ứng chiến quân phục kích. Trung Tá Nguyễn Trọng Luật biết vậy, nên đã ra lệnh các chiến binh không nhảy ra khỏi xe đồng thời thả cửa tung lựu đạn tay ra banh xác các chiến binh Việt Cộng. Đến khi cuộc phục kích kết thúc thì chỉ việc ung dung xuống xe đi đếm xác địch bị lựu đạn giết hại nằm ngổn ngang sát cạnh các xe tăng. - (2) Với thế “kiềm vĩ kích thủ”, nắm đuôi với bộ binh đập đầu với oanh tạc B-52, cán binh Việt Cộng chịu bó tay chết thảm trong khi các toán quân Mỹ cẩn thận đứng xa vùng oanh tạc khoảng cách an toàn trên 3 cây số. - (3) Đến khi lính dù Việt Nam nhảy vào vòng chiến trong giai đoạn chót của chiến dịch Pleime thì các cán binh Việt Cộng của hai Tiểu Đoàn Việt Cộng – 635 và 334 – sống sót chỉ tìm cách tránh nhé sợ đụng độ với quân dù, mặc dù vậy cũng bị quân dù phục kích hai lần, bị thiệt hại khoảng 200 tên và vứt bỏ lại vô số vũ khí khi tháo chạy. Trung Tá Nguyễn Trong Luật hèn nhát Tướng Nam Hà nhận xét:
Chết thật, không hiểu Tướng Nam Hà nghe được tin vịt vô căn cứ này ở đâu ra? Trung Tá Luật đã thành công thắng vượt ổ phục kích và dẫn đưa Chiến Đoàn 3 Thiết Giáp tiến vào trại Pleime vào lúc ban tối ngày 24-10. Đánh thắng trận Plây Me Tướng Nam Hà nhận xét:
Chứ không phải nỗ lực “công đồng đả viện” không thành khi số cán binh bị thương vong ở cả hai địa điểm phục kích và đồn quá cao khiến Mặt Trận B3 phải ra lệnh tháo lui về hậu cứ để tính kế phục thù sao? Đại Tá Hiếu nhận xét trong cuốn, Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, nơi trang 94:
Điều động binh lực Tướng Nam Hà nhận xét:
Xin mạn phép chỉnh những sai sót của Tướng Nam Hà như sau: -“ chiến đoàn thủy quân lục chiến ngụy” được đưa lên không phải để giải vây cho Plây Me mà là để giữ an ninh trục lộ rút quân của chiến đoàn 3 thiết giáp từ trại Pleime về thành Pleiku. Đại Tá Hiếu viết trong cuốn, Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, nơi trang 94:
- “sư đoàn 1 kỵ binh bay” không được “không vận ào ạt” đưa lên Pleiku. Chỉ có Task Force Ingram gồm 1 tiểu đoàn bộ binh và 1 tiểu đoàn pháo binh rút từ cuộc hành quân Thần Phong 6 ở Bồng Sơn lên trợ lực cho cuộc hành quân Dân Thắng 21 giải vây cho trại Pleime. Tiểu đoàn bộ binh thay thế cho Tiểu Đoàn 22 BĐQ bảo vệ phi trường Pleiku và tiểu đoàn pháo binh yểm trợ cho Chiến Đoàn Thiết Giáp tại địa điểm phục kích. - “trung đoàn Nam Hàn” không có mặt tại chiến trường Pleime vào thời gian từ 19-10 đến 26-11. Chỉ vào cuối năm 1966 mới có một tiểu đoàn Nam Hàn được đưa lên Cao Nguyên hành quân liên hợp với Sư Đoàn 4 Bộ Binh Mỹ dọc theo Quốc Lộ 19 gần biên giới Cao Mên. - không phải “chúng dùng hàng trăm lần chiến B52 chi viện cho các trận đánh”, mà nỗ lực chính là dùng B52 tiêu diệt địch quân còn bộ chiến là dùng để trợ lực cho B52 nhắm trúng mục tiêu oanh tạc. Thế nghi binh của Lữ Đoàn 3 Không Kỵ Mỹ Tướng Nam Hà nhận xét:
Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh thay thế Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh không vì “trung đoàn đã tiêu hao” mà là dùng thế nghi binh dụ địch tập trung quân lại để bị tiêu diệt bằng oanh tạc B-52. Đại Tá Hiếu viết trong cuốn, Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, nơi trang 106:
Trung Đoàn 320 Tướng Nam Hà nhận xét:
Tướng Nam Hà nhận xét quá nhầm lẫn. - Lữ Đoàn 3 Không Kỵ rút về Pleiku ngày 17-11 sau trận đánh tại LZ Albany và được thay thế bởi Lữ Đoàn 2 Không Kỵ làm lực lượng trừ bị cho Liên Đoàn Dù VN. - Liên Đoàn Dù VN được tung vào vòng chiến ngày 18-11 để truy lùng và triệt tiêu nốt hai tiểu đoàn sống sót – 635 và 334 – của Trung Đoàn 32. Hai đơn vị này đã tránh né đụng độ và bị quân Dù phục kích hai lần vào ngày 20-11 và 24-11 tại “vùng Tây suối Ea Kreng (Plây Thê) và Đông suối Ea Man”. Đại Tá Hiếu viết trong cuốn , Why Pleime , nơi chương VI:
Tham mưu trưởng chiến dịch Plây Me Tướng Bùi Nam Hà tự giới thiệu “là một người trong cuộc, với cương vị Tham mưu trưởng mặt trận”. Theo tài liệu tình báo của Đại tá Hiếu thì tham mưu trưởng của mặt trận trong chiến dịch Pleime là Đại Tá Hà Vi Tùng (Why Pleime, chương III):
Chính xác ở đâu? Xin nhường lại cho các sử gia – nhất là phía Việt Cộng - điều nghiên xác định. Ở đây, chỉ xin dựa vào nét thông minh và thâm sâu của nhân vật Hà Vi Tùng phản ảnh trong sách Why Pleime đem ra so sánh với nét khù khờ và nông cạn của Bùi Nam Hà qua lời phát biểu tại khóa hội thảo, để mà suy diễn Hà Vi Tùng là tham mưu trưởng nguyên thủy của chiến dịch và Bùi Nam Hà được thay thế vào chức vụ tham mưu trưởng sau đợt vây đồn diệt viện thất bại. (*) Viện lịch sử quân sự Việt Nam, Quân đội nhân dân. Bộ tư lệnh Quân đoàn 3. Nhà xuất bản Hà Nội: Quân đội nhân dân, 1995. Nguyễn Văn Tín
Tài liệu tham khảo
|