Duyệt Xét Bản Báo Cáo “Khía Cạnh Tình Báo của Chiến Dịch Pleime/Chuprong” 1. Không rõ bản báo cáo được thảo xong ngày tháng nào, chỉ biết là thư viện US Army War College nhận được một ấn bản ngày 22 tháng 8 năm 1966. Vì là một bản tường trình sau trận đánh – về khía cạnh tình báo - nên chỉ có thể đoan chắc là bản báo được thảo xong sau tháng 11 năm 1965 và trước ngày 22 tháng 8 năm 1966. 2. Bản báo cáo do Ban 2/MACV soạn thảo và có lời tựa với chữ ký của Chuẩn Tướng J.A. McChristian Trưởng Phòng Ban 2/MACV. 3. Bản báo cáo đề cập tới khía cạnh tình báo của chiến dịch Pleime/Chuprong từ ngày 20 tháng 10 đến ngày 20 tháng 11 năm 1965. Như vậy nghĩa là chỉ nói tới giai đoạn I và giai đoạn II của toàn bộ chiến dịch Pleime gồm ba giai đoạn Pleime/Chuprong/Iadrang, từ ngày 20 tháng 10 đến 26 tháng 11 năm 1965. 4. Phần 07. Thi hành, chính yếu ghi tóm lược hành quân và tóm lược tình báo hằng ngày, từ ngày 24 tháng 10 đến 20 tháng 11, giống y hệt phần 07. Thi Hành, từ ngày 24 tháng 10 đến 20 tháng 11 của Chiến Dịch Pleiku do Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ soạn thảo. Ban 2/MACV chỉ thêm tóm lược hành quân và tình báo cho ngày 20-23 tháng 10 năm 1965. Tuy nhiên, Tướng McChristian có chỉnh sửa bài viết của Chiến Dịch Pleiku bằng cách tảy xóa tất cả các phần 4. Thống Kê Sinh Hoạt và xóa bỏ một số câu, tỷ như: - Ngày 8/11 - Tóm Lược Tình Báo: "Vào khoảng lúc này, Field Force Vietnam yêu cầu sư đoàn di chuyển các cuộc hành quân của mình về phía đông Pleime nếu "không có thêm đụng độ mới nữa trong vùng phía tây"; - Ngày 10/11 - Tóm Lược Tình Báo: "Thế điều quân chuyển hướng từ tây sang đông là để khơi ngòi cho một quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc Quân"; - Ngày 11/11 - Tóm Lược Tình Báo: "Bộ Tư Lệnh Mặt Trận Dã Chiến, sau khi thẩm định tình hình, đã đi tới một quyết định. Với các đơn vị Mỹ coi bộ rút lui về phía đông Pleime, quyết định là cố gắng lấy lại thế thượng phong với một cuộc tấn công. Lần này cũng lại là trại DSCĐ Pleime. Bộ tư lệnh sư đoàn VC ấn định ngày tấn công là ngày 16 tháng 11, và ra chỉ thị cho ba trung đoàn của sư đoàn"; 5. Ngoài ra, phần Khái Niệm Hành Quân, và phần Rút kinh nghiệm của hai bản báo cáo Ban 2/MACV và BTL/SĐ1KK cũng giống y hệt nhau. Thêm nữa, phần Kết luận của Ban 2/MACV thì lại là một đoạn trích của phần Mở Đầu của BTL/SĐ1KK. 6. Vì bản của BTL/SĐ1KK được soạn thảo xong và trình Tướng Kinnard ký ngày 4 tháng 3 năm 1966 mà bản của Ban 2/MACV không biết được soạn thảo xong và trình Tướng McChristian ký ngày nào, nên khó xác định được ai sao chép ai. Có một tài liệu khả dĩ giúp làm sáng tỏ vấn đề này. Why Pleime nhắc tới bản báo cáo tình báo đề ngày 24 tháng 11 năm 1965 của Ban 2/SĐ1KK: “27. Intelligence Report, Hqs, 1st Air Cav Div, Office of the G-2, Dated 24 Nov 65, Subject: Ia Drang Valley (Silver Bayonet 1) YA 9104 14-19 Nov 65.” Như vậy xác suất Ban 2/MACV sao chép Pleiku Campaign của BTL/SĐ1KK phần mô tả hành quân từ ngày 20 tháng 10 đến 20 tháng 11 năm 1965 cao hơn là ngược lại. 7. Tuy nhiên dựa vào lời của Tướng McChristian:
Khi nhận thức thấy rõ là trong chiến dịch Chu Prong một trận chiến tầm cỡ lớn đang hình thành, Phụ Tá Tham Mưu Trưởng/Ban 2, yêu cầu các lực lượng tại chiến trường phải ghi chép cách chính xác các thao tác hành quân vào sổ nhật ký để sau này sẽ được đưa vào một bản báo cáo sau trận đánh. Sau khi tiếp nhận được thông tin này một bản tường trình sau trận đánh đã được soạn thảo và cống hiến cho chỉ huy trưởng ở mọi tầng cấp tùy nghi xử dụng.
có thể suy diễn cấu trúc bản báo cáo hành quân từng ngày gồm hai phần tóm lược hành quân và tóm lược tình báo với dụng ý cho thấy mối liên hệ tương quan hậu quả và ảnh hưởng của hai khía cạnh khái niệm hành quân và tình báo, là sáng kiến của Tướng McChristian, Trưởng Phòng Ban 2/MACV. 8. Điều đáng ghi nhận là bản báo Ban 2/MACV dè dặt hơn bản báo cáo BTL/SĐ1KK khi nêu lên phương pháp thu thập tình báo chỉ liệt kê có SLAR (radar), IR (hồng ngoại tuyến), không ảnh và hỏi cung tù binh, và bỏ qua không nói tới RR (radio research - kiểm thính phát sóng radio): “The DTOC received direct SLAR and infra-red (I-R) reports from the aerial surveillance and target acquisition platoon (OV-1 Mohawk) and USAF sources, plus reports and the Radio Research Unit.” (Pleiku Campaign, trang 128). Chỉ có nguồn tình báo gặt hái được qua phương pháp kiểm thính mới có được thông tin thức thời về ý định, trù tính, bàn thảo tại Bộ Tư Lệnh B3. Tỉ như (kiểm thính thức thời trong ngày xảy ra):
Các phương pháp kia – radar, hồng ngoại tuyến, không ảnh, hỏi cung tù binh – quá lắm chỉ cung cấp vị trí của các đơn vị địch quân, chứ không thể biết được những gì bàn thảo ngay trong nội bộ BTL Mặt Trận B3. 9. Một điểm khác bản báo cáo Ban 2/MACV (trang 67) nhận xét là phía Việt Cộng không hay biết đến nguồn tình báo chính xác phía Mỹ xử dụng: “Các phương pháp thu thập có giá trị đặc biệt vì chúng trung thực và rất thức thời và địch hầu như không hay biết đến sinh hoạt của các phương pháp tình báo này,” và ngỡ tưởng là có gián điệp địch nằm trong hàng ngũ cán bộ:
(Chiến dịch Pleiku, ngày 1 tháng 11, trang 46) 10. Một thông tin cá biệt chỉ tìm thấy trong bản báo cáo Ban 2/MACV (nơi trang 6: mô tả tình hình trước cuộc hành quân) là kế hoạch đánh rập mật khu Chu Prong bằng B-52 được điều nghiên từ tháng 9 năm 1965, trước khi Việt Cộng khởi động chiến dịch Plâyme ngày 19 tháng 10 năm 1965:
Điều này chứng tỏ cho thấy là chiến dịch Plâyme của Việt Cộng tạo cơ hội cho Quân Đoàn II phối hợp với Ban 3/MACV phụ trách Trung Tâm Hành Quân Oanh Tạc Chiến Lược B-52 thực hiện kế hoạch phá hủy mật khu Chuprong/Iadrang đồng thời triệt tiêu toàn bộ lực lượng gồm ba trung đoàn của Mặt Trận B3 bằng B-52. 11. Sự kiện Ban 2/MACV thảo một bản tường trình về Chiến Dịch Pleime-Chuprong là một chỉ dấu sự can dự ở cấp Quân Đoàn với Ban 3/MACV phối hợp cùng Quân Đoàn II trong việc lập kế hoạch từ tháng 9 năm 1965 và trong việc thi hành các oanh tạc B-52 tại Chuprong từ 15 đến 20tháng 11. Sự kiện này được minh họa với sự khác biệt giữa hai bản đồ mô tả hành quân cùng một ngày 18/11, một của Ban 2/MACV có ghi oanh tạc B-52 và hai của Sư Đoàn 1 Không Kỵ không ghi oanh tạc B-52: Nguyễn Văn Tín
Tài liệu tham khảo
|