- Có cuộc hành quân nào mang tên “Operation Pleime-Chupong B-52 Strike” không”? = Có. Đó là tên mật mã gán cho cuộc hành quân oanh tập B-52 xử dụng trong việc hỗ trợ tác chiến của Sư Đoàn 1 Không Kỵ hành quân tại thunh lũng Ia Drang vào tháng 11 năm 1965 (Air Force Historical Studies Office:
- Ai chọn đặt cái tên đó? = Chuẩn Tướng J.A. McChristian, Trưởng Phòng Tình Báo J-2/MACV, khi ông soạn thảo bản báo cáo, Intelligence Aspect of Pleime/ Chu Pong Campaign (20 October to 20 November 1965). Tướng McChristian nói là chiến dịch bắt đầu tại Pleime vào ngày 20 tháng 10 (trang 6):
và ông chỉ cho thấy trên bản đồ B-52 thả bom chỗ nào tại Chuprong ngày 18. Danh xưng này chỉ dùng trong nội bộ COMUSMACV; ngoài ra ̣(CINCPAC, JGS, Defense Department, State Department), thì được gọi là oanh tập B-52 yểm trợ tác chiến cho cuộc hành quân Silver Bayonet I tại Thung Lũng Ia Drang. it is called the Arc Light operation in tactical support of Operation Silver Bayonet I at Ia Drang Valley. - Có thể tìm đọc bản báo cáo này ở đâu? = Tại The US Army Heritage & Education Center - The US Army, Military History Institute - The US Army War College Library, Carlisle, PA 17013. - Các cuộc hành quân oanh tập B-52 tiên khởi trong cuộc chiến Việt Nam được biết đến là các cuộc hành quân nào? = Cuộc hành quân đầu tiên tên mã Arc Light I xảy ra ngày 1/8 tháng 6 năm 1965 (MACV: The Years of Escalation, 1962-1967):
= cuộc hành quân Ho Bo Woods Arc Light được trù định vào ngày 17 tháng 9 năm 1965 nhưng không thực hiện vì bị Bộ Ngoại Giao ngăn cấm (General Westmoreland’s history notes):
= cuộc hành quân Arc Light đầu tiên dùng hỗ trợ tác chiến cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ tại thực hiện cuộc hành quân Silver Bayonet I Thung Lũng Ia Drang vào tháng 11 năm 1965 (với mạc danh 'Pleime-Chupong Campaign'). = cuộc hành quân Arc Light thứ hai dùng hỗ trợ tác chiến cho cuộc hành quân Harvest Moon của Thủy Quân Lục Chiến vào tháng 12 năm 1965 (Harvest Moon operation Dec 1965):
= và cuộc hành quân Niagara Arc Light nổi tiếng nhất tại Khe Sanh năm 1968. Tuy nhiên, Bộ Tư Lệnh MACV thật sự thực hiện một số lượng khá lớn các cuộc oanh tập B-52 trong năm 1965: một phi vụ trong tháng 6, 6 phi vụ trong tháng 7, 10 phi vụ trong tháng 8, 20 phi vụ trong tháng 9, 23 phi vụ trong tháng 10, 39 phi vụ trong tháng 11, và 39 phi vụ trong tháng 12 (Project CHECO report, Arc Light 1965-1966, 15 Sep 67). - Cuộc Hành Quân Pleime-Chuprong Oanh Tập B-52 khác các cuộc hành quân oanh tập B-52 hỗ trợ tác chiến ra sao? Hai điểm khác biệt: = Một, trong các trường hợp chung, Bộ Tư Lệnh MACV điều nghiên kế hoạch rồi thông báo cho Tư Lệnh Quân Đoàn Việt Nam khi thực hiện oanh tập; trong khi trong trường hợp cá biệt này, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II điều nghiên kế hoạch và thông báo cho Bộ Tư Lệnh MACV thời điểm thi hành oanh tập. = Hai, trong các trường hợp chung, mục đích oanh tập hoặc mang tính cách chiến lược đánh phá các căn cứ địch quân, hoặc mang tính các chiến thuật hỗ trợ cho các đơn vị bộ chiến; trong khi trong trường hợp cá biệt này, oanh tập B-52 được xử dụng làm chủ lực, hỗ trợ bởi bộ chiến. - Ai là chủ mưu cuộc hành quân Pleime-Chupong oanh tập B-52? = Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II. Ông cung cấp khái niệm hành quân và tình báo của toàn bộ cuộc hành quân. Ông phối hợp một toán hành quân gồm Chuẩn Tướng William DePuy, J-3/MACV, Thiếu Tướng Richard Larsen, IFFV Commander, và Chuẩn Tướng Richard Knowles, 1st Air Cavalry Division Forward Commander. ChuẩnTướng DePuy phối hợp với cơ quan SAC trong việc thực hiện các cuộc oanh tập B-52. Việc điều quân của các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ trong giai đoàn chuẩn bị (hành quân Long Reach) do Chuẩn Tướng Knowles, 1st Air Cav Div Forward Commander (chỉ huy hành quân) đảm nhiệm và Thiếu Tướng Larsen, IFFV Commander (chỉ đạo hành quân) đảm nhiệm. Cuộc hành quân được giảm sát chặt chẽ bởi General Westmoreland tại MACV và bởi Tướng Nguyễn Đức Thắng và Tướng Nguyễn Hữu Có (Trưởng Ban J3 và Phụ Tá Đặc Trách Hành Quân) tại Bộ Tổng Tham Mưu. - Cuộc hành quân được thực hiện dưới phương thức nào? = Phương thức của cuộc hành quân được Quân Đoàn II đề xướng: liên hợp về mặt tình báo và sinh hoạt hỗ trợ, chia sẻ về mặt khái niệm hành quân và kết quả, riêng rê về mặt vùng hành quân, chỉ huy, điều quân và trừ bị (Why Pleime, chapter VIII):
- Tình trạng làm việc chung của toán hỗn hợp Việt-Mỹ ra sao? = Theo Tướng Westmoreland, “Sự hữu hiệu của nỗ lực khéo tổ chức, ăn khớp mật thiết, cộng tác phối trí chung quả là hiếm thấy trong chiến tranh hiện đại.” (Why Pleime, Preface). Ông nắm quyền trong vấn đề này bằng cách không để cho phía bên nào lấn át phía bên kia (General Westmoreland’s History Notes):
Ông cũng ngăn ngừa các hành vi tiếm quyền (General Westmoreland’s History Notes):
- Tướng Westmoreland giám sát việc thực hiện cuộc hành quân này đến mức độ nào? = Trong suốt chiến dịch Pleime-Chupong, Tướng Westmoreland thăm viếng thường xuyên các bộ tư lệnh cấp quân đoàn, sư đoàn, lữ đoàn và tiểu đoàn – để nắm vững tình hình tại mọi thời điểm (General Westmorland’s History Notes (29 August-29 November 1965)"): ngày 19 tháng 10, các sĩ quan thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ; ngày 28 tháng 10, Trung Tá Colonel Clark, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 1 Không Kỵ; ngày 31 tháng 10, Tướng Larsen, IFFV; ngày 6 tháng 11, Tướng Kinnard, Sư Đoàn 1 Không Kỵ; ngày 18 tháng 11, Trung Tá Hal Moore, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ, và Đại Tá Tim Brown, Lữ Đoàn 3 Không Kỵ, cùng Tướng Vĩnh Lộc, Quân Đoàn II và Tướng, IFFV; ngày 25 tháng 11, Chiến Đoàn Dù Việt Nam, và Lữ Đoàn 2 Không Kỵ tại Đức Cơ. Sau khi chiến dịch chấm dứt, Tướng Westmoreland phác họa cách chuẩn xác các nét đại cương của chiến dịch (Preface, Why Pleime):
- Tướng William DePuy có thảo một bản báo cáo sau trận đánh cho cuộc hành quân này không? = Không như Tướng McChristian, Trưởng Phòng J-2/MACV, Tướng DePuy coi bộ không để lại một bản viết nào ghi lại sự tham dự của ông trong cuộc hành quân Pleime-Chuprong oanh tập B-52 . Sự kiện này, cùng với sự câm lặng của Tướng Westmoreland về hành động oanh tập B-52 tại Chuprong trong các các bản Ghi Chép Lịch Sử, khiến cho các sử gia kết luận là không có một cuộc hành quân do một toán hỗn hợp Việt (Đại Tá Hiếu) – Mỹ (Chuẩn Tướng DePuy) điều nghiên như vậy. - Có tài liệu chính thức nào ghi xuống đích danh sự can dự của Tướng DePuy trong cuộc hành quân không? = Có, trong Nhật Ký Ban 3 /IFFV (Nhật Ký Ban 3 /IFFV, 15/11/65):
- Có thể tìm thấy kế hoạch này ở trong tài liệu nào? = Trước tiên, trong bản báo cáo Intelligence Aspect of Plei Me/Chu Pong Campaign của Tướng McChristian, trong đó cho thấy thời khóa biểu các sinh hoạt phối hợp giữa oanh tập B-52 và Sư Đoàn 1 Không Kỵ khởi sự từ đầu tại Pleime cho đến cuối cùng tại Chuprong. Và thứ đến, trong cuốn sách Why Pleime và Pleime, Trận Chiến Lịch Sử của Tướng Vĩnh Lộc, trong bản tường trình Pleiku Campaign của Tướng Kinnard, và trong Nhật Ký Ban 3/IFFV của Tướng Larsen, trong đó mô tả các khía cạnh khác nhau về cuộc hành quân phối hợp oanh tập B-52-Sư Đoàn 1 Không Kỵ. - Kế hoạch tiên khởi của hành quân oanh tập B-52 tại Chuprong là gì? = Kế hoạch tiên khởi được điều nghiên từ thang 9 năm 1965, một tháng trước khi trại Pleime bị vây hãm (Intelligence Aspect of Pleime/ Chu Pong Campaign, page 6):
Kế hoạch điều nghiên tính chất khả thi của việc xử dụng oanh tập B-52 để tiêu diệt ba Trung Đoàn 32, 33 và 66 Bắc Việt – xâm nhập xuống Miền Nam, khi chúng kết tụ lại tại các vùng tập trung tại chân rặng núi Chuprong để chuẩn bị tấn công trại Pleime một lần nữa. Mặt Trận B3 trù tính khởi đầu tấn công vào tháng 12 năm 1965: Trung Đoàn 32 đã hành quân tại vùng Cao Nguyên từ đầu năm; Trung Đoàn 33 bắt đầu hoạt động vào tháng 9; và Trung Đoàn 66 sẽ tiến vào chiến trường vào giữa tháng 11. Do vậy cuộc hành quân tiên khởi mang tên Chupong operation (Forward, Intelligence Aspect of Pleime/Chupong Campaign):
được trù tính xảy ra vào tháng 12 năm 1965. - Tại sao cuộc hành quân được cải danh thành Pleime-Chupong campaign? = Khi Mặt Trận B3 lấy quyết định tấn công trại Pleime sớm hơn theo trù tính vào ngày 20 tháng 10 với chỉ duy hai Trung Đoàn 32 và 33 trong khi Trung Đoàn 66 còn rong ruổi trên đường mòn Hồ Chí Minh, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II và chì hoãn xử dụng trải thảm bom B-41 chờ cho Trung Đoàn tới nơi và điều chỉnh kế hoạch theo các điều kiện mới. Giờ thì kế hoạch gồm hai giai đoạn. Giai đoạn Pleime: ngăn cấm địch lấn chiếm trại Pleime; và giai đoạn Chuprong: đẩy lui hai trung đoàn tấn công trở về Chuprong. Giai đoạn Chuprong đưa thêm vào vai trò yểm trợ do Sư Đoàn 1 Không Kỵ đảm trách thu gom và ghim các đơn vị địch quân thành các mục tiêu khả dụng cho các oanh kích B-52. Ngày 27 tháng 10, khi hành quân Dân Thắng 21 kết thúc, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II giao cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ trọng trách thực hiện cuộc hành quân Long Reach (Trường Chinh), gồm hai cuộc hành quân nối tiếp nhau: All the Way do Lữ Đoàn 1 Không Kỵ đảm nhận từ 27 tháng 10 đến 9 tháng 11, và Silver Bayonet I do Lữ Đoàn 3 Không Kỵ đảm nhận từ 9 đến 17 tháng 11. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nắm phần chỉ đạo hành quân qua tay Tướng Larsen, Tư Lệnh IFFV. Các toán quân đã được sắp đặt cách nào để trở thành mục tiêu cho B-52 nhắm bắn được? = Trước tiên, sau khi các toán quân tấn công rút lui về Chuprong, và biết rằng địch quân ước muốn trả thù (Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, trang 94):
Quân Đoàn II giữ trại Pleime dưới trách nhiệm của mình ngõ hầu trại vẫn coi vẻ yếu ớt và dễ đánh chiếm, và như vậy địch vẫn ham muốn nuốt chửng (G3 Journal/IFFV, 10/30/65):
= Thứ đến, sau khi Lữ Đoàn 1 Không Kỵ thành công thu gom hai Trung Đoàn 32 và 33 trở lui về Chuprong, Lữ Đoàn 3 Không Kỵ được lệnh hoán đổi hướng hành quân từ tây về đông để khuyến dụ ba Trung Đoàn 32, 33 và 66 kết tụ lại tại các khu vực tập trung để chuẩn bị tấn công trại Pleime lần thứ hai (Pleiku Campaign, page 67, 76, 76):
= Sau cùng, do phải thông báo phi đoàn 52 trước 72 tiếng, các đợt oanh tập B-52 đầu tiên chỉ có thể trù định sớm nhất là vào ngày 15 tháng 11, khi đó thì các đơn vị Bắc Quân đã xuất quân ra khỏi các khu vực tập trung, cần phải thiết lập một thế nghi binh để ghìm các mục tiêu lại. Do đó, vào ngày 14 tháng, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ được đổ bộ xuống chân rặng núi Chuprong, sát kề vị trí của Trung Đoàn 66 là chủ lực trong cuộc tấn công thứ hai. Tiểu đoàn này cũng được sắp xếp rút ra khỏi bãi đáp vào ngày 16 tháng 11 để oanh tập B-52 lên đầu các vị trí của các đơn vị thuộc Trung Đoàn 66 tại quanh vùng bãi đáp X-Ray ngày 17 tháng 11. Tướng Knowles tiết lộ chủ đích cho đổ bộ các toán quân Không Kỵ tại LZ X-Ray ngày 14 tháng 11 là “Chộp con hổ đằng đuôi” và đập đầu nó với oanh tập B-52 từ ngày 15 đến 16 tháng 11. Ông cũng giải thích lý do rút quân ra khỏi LZ X-Ray ngày 17 tháng 11 và di chuyển quân tới LZ Albany là để “nắm lấy đuôi hổ từ một hướng khác” đồng thời tiếp tục đập đầu nó với bom B-52 từ ngày 17 đến 20 tháng 11. Tóm lại, cuộc hành quân Pleime-Chuprong oanh tập B-52 được thực hiện qua năm nước đi: 1/ ngăn chận cuộc tấn công tại Pleime; 2/ đẩy lui cuộc tấn công về Chuprong; 3/ thu dọn và ghìm các mục tiêu; 4/ thả bom; và 5/ đánh dứt điểm. Cuộc hành quân kéo dài 38 ngày và 38 đêm từ đầu chí cuối. Yếu tố then chốt khiến cuộc hành quân Pleime-Chuprong oanh tập B-52 thành công vượt bực là gì? = Thành quả của chiến dịch Pleime-Chuprong oanh tập B-52 là nhờ vào nắm được tình báo chính xác và tức thời về tình hình quân sự của địch (Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, trang 94):
Tình báo này có được qua một phương pháp đặc biệt: kiểm thính các liên lạc bạch thoại bằng tiếng Quan Thoại giữa các Cố Vấn Tàu. Hế thống máy móc kiểm thính được cung cấp bởi chính phủ Đài Loan từ thời chính phủ Ngô Đình Diệm (Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, trang 124):
Các Cố Vấn Tàu, cũng được đặt để trong các lực lượng Bắc Quân tại cấp trung đoàn, nói chuyện tự do với nhau trên các đài vô tuyến, mà không hề hay biết là bị các toán tình báo Việt Nam nghe lóm. Nguồn tin tình báo này cho phép Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II biết được tất cả mọi toan tính của Mắt Trận B3 cách chính xác và tức thời và theo đó trù liệu thời điểm đợt đầu oanh tập B-52 vào lúc 1600 giờ ngày 15 tháng 11 và đặt để Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ tại chân rặng núi Chuprong ngày 14 tháng 11 để ghim các mục tiêu cho các oanh kích B-52. Không như các trường hợp hành quân oanh tập B-52 khác, các tổn hại gây nên bởi các oanh kích B-52 không được lượng tính bằng cách tung các toán quân bộ chiến vào các vùng oanh kích. Con số tổn hại được cung cấp bởi nghe ngóng các bản báo cáo tổn hai của chính các Cố Vấn Tàu. Chính vì vậy mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II hết sức chắc chắn là địch đã tổn thất 2/3 lực lượng sau hai ngày oanh kích B-52 vào ngày 17 tháng 11 (Why Pleime, chapter VI) :
và tung Chiến Đoàn Dù vào Iadrang để kết thúc cuộc hành quân. Thành quả của cuộc hành quân Pleime-Chuprong oanh tập B-52 ra sao? = Tướng McChristian ghi nhận trong bản báo cáo (Intelligence Aspect of Plei Me/Chu Pong Campaign, trang 67):
Cần ghi chú là Tướng McChristian cẩn thận che đậy nguồn tình báo kiểm thính bằng chỉ điểm nguồn từ lời khai của một tù binh Việt Cộng trong trường hợp này, hay từ các tài liệu tịch thâu được trong các trường hợp khác (Intelligence Aspect of Plei Me/Chu Pong Campaign, page 41):
Nguyễn Văn Tín
Tài liệu tham khảo
|