Sự Thật về Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Có hai mặt trận tại Thung Lũng Ia Drang: mặt trận thứ nhất là một cuộc hành quân bộ chiến do Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ thực hiện, tập trung tại bãi đáp X-Ray, từ ngày 14 đến 17 tháng 11 năm 1965; trận chiến thứ hai là một cuộc hành quân không lực do các phóng pháo cơ B-52 thực hiện, trải rộng khắp cùng vùng Chu Prong/ Ia Drang, từ 15 đến 19 tháng 11 năm 1965. Cuộc hành quân bộ chiến là một thế nghi binh hỗ trợ cho cuộc hành quân không lực: chủ đích là chuẩn bị và ghim các mục tiêu cho các phi tập B-52. Khởi đầu là Hành Quân Chuprong , nhưng rồi do tình hình quân sự phía Việt Cộng thay đổi, nên nó trở thành Chiến Dịch Pleime-Chuprong , rồi tiếp sau là Chiến Dịch Pleime-Chuprong –Iadrang. Hành Quân Chuprong Cuối năm 1964, Chủ tịch Mao Trạch Đông của Trung Cộng bật đèn xanh cho Việt Cộng nâng cấp các lực lượng xâm chiếm Miền Nam lên cấp sư đoàn. Trong buổi họp này 05/10/1964, Mao Trạch Đông nói với Phạm Văn Đồng:
Đầu năm 1965, Sư Đoàn 304 nhận lệnh chuẩn bị xâm nhập Miền Nam:
Tháng 8 năm 1965, Sư Đoàn 304 nhận lệnh gập rút chuẩn bị đi tới vùng Cao Nguyên Trung Phần vào tháng 9:
Trong tháng 9 năm 1965, Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 đặt xong kế hoạch Chiến Dịch Plâyme với sự tham chiến của ba trung đoàn – 32, 33 và 66. Kế hoạch trù tính thực hiện làm bốn giai đoàn: 1) Trung Đoàn 33 vây hãm trại Pleime để dụ lực lượng chính của Quân Đoàn II ra khỏi thành Pleiku; 2) Trung Đoàn 33 phục kích lực lượng tiếp cứu trại; 3) Cả hai trung đoàn hiệp lực tấn chiếm trại; 4) Trung Đoàn 66 hiệp lực với hai Trung Đoàn 32 và 33 tấn chiếm thành phố Pleiku. Việt Cộng điều nghiên Chiến Dịch Plâyme với sự trợ giúp trực tiếp của Trung Cộng. Một bản doanh các Cố Vấn Trung Cộng được thiết lập tại Nam Vang để phối hợp chiến dịch này:
Chính là nhờ vào công việc kiểm thính các liên lạc điện đài công khai của các Cố Vấn Trung Cộng giữa bản doanh tại Nam Vang và các ban chỉ huy dã chiến cấp trung đoàn mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II có được những tin tức tình báo cập nhật về tình hình quân sự của phía địch trong suốt chiến dịch và hoạch định một kế hoạch phản công đáp ứng mềm dẻo, đưa chiến dịch Pleime đến chiến thắng:
Trong tháng 9 năm 1965, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đặt kế hoạch Chiến Dịch Chuprong. Mục đích là triệt tiêu ba trung đoàn Bắc Quân với bom trải thảm B-52 tại ngay thời điểm ba trung đoàn này qui tụ tại các vùng tập trung tái Chu Prong để chuẩn bị tấn công trước khi chúng có thể ra tay hành động:
Chiến Dịch Pleime-Chuprong Tuy nhiên, vào ngày 19 tháng 10, Bộ Tư Lệnh B3 lấy quyết định tấn công sớm hơn dự tính với duy hai Trung Đoàn 32 và 33 và gia tăng mức độ chuẩn bị một tháng trước:
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II điều chỉnh kế hoạch thành Chiến Dịch Pleime-Chuprong. Khái niệm hành quân của chiến dịch là đẩy lui cuộc tấn công của địch và chờ cho hai Trung Đoàn 32 và 33 qui tụ lại với Trung Đoàn 66 tại Chu Prong ngõ hầu có thể dùng trải thảm bom B-52 như đã trù tính trước. Kế hoạch sẽ được thực hiện qua hai giai đoạn: 1) đẩy lui cuộc tấn công; 2) lùa các toán quân rút lui về lại hậu cứ Chu Prong. - Giai đoạn I: Đẩy lui với hành quân Dân Thắng 21 Khi Trung Đoàn 33 tấn công trại Pleime ngày 19 tháng 10, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tiếp nhận sự thách đố:
Chiều ngày 20 tháng 10, một Lực Lượng Đặc Nhiệm Thiết Giáp được phái đi tiếp cứu trại và ngày 21 tháng 10, một toán gồm hai đại đội Lực Lượng Đặc Biệt được chuyển vận đến trại. Không Lực Hoa Kỳ được xử dụng làm lực lượng chính đẩy lui địch quân tại cả hai địa điểm của trại và ổ phục kích: - tại trại Pleime
- tại ổ phục kích
- Giai đoạn II: Lùa địch với hành quân Long Reach Trại Pleime được giải tỏa. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, qua tin tình báo, biết được hai Trung Đoàn 32 và 33 được lệnh rút lui và chuẩn bị một cuộc tấn khác cùng với Trung Đoàn 66:
Sứ mạng lùa địch quân được giao cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ với cuộc hành quân Long Reach:
Để tiếp tục nhử lòng thèm muốn của địch, khi nới rộng vùng hành quân cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn duy trì quyền kiểm soát trại Pleime cho mình; do đó trại vẫn có vẻ yếu ớt đối với một cuộc tấn công của địch:
Hành quân Long Reach triển khai qua hai giai đoạn: hành quân All the Way với Lữ Đoàn 1 Không Ký và hành quân Silver Bayonet I với Lữ Đoàn 3 Không Kỵ. Hành quân All the Way (27 tháng 10- 9 tháng 11) Lữ Đoàn 1 Không Kỵ ra tay lùa các toán quân nhỏ rải rác của Trung Đoàn 3 trở luii về Chu Prong, trong khi đó Ban 2 Quân Đoàn II theo dõi sự di chuyển của địch quân qua đài kiểm thính:
Hành quân Silver Bayonet I (9 -17 tháng tháng 11) Ngày 9 tháng 11, Lữ Đoàn 3 Không Kỵ thay thế Lữ Đoàn 1 Không Kỵ và nhận lãnh sứ mạng dụ Mặt Trận B3 qui tụ ba trung đoàn lại để chuẩn bị tấn công trại Pleime lần thứ hai:
Ngày 11 tháng 11, Trung Đoàn 66 đóng tại (trung tâm khối YA 9104); Trung Đoàn 32 tại (YA 820072), Trung Đoàn 33 tại (YA 940011). Chúng trở thành mục tiêu B-52 có thể nhắm dội bom được. Thời điểm trên mục tiêu được ấn định là 16:00 giờ ngày 15 tháng 11 tại trung tâm khối của các lực lượng địch quân (YA8702). Để trợ giúp cho mức tiến hành chậm chạp của B-52 – cần được thông báo trước 72 tiếng và mất tám tiếng bay từ Guam đến Chuprong - ngày 12 tháng 11, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ được lệnh sẵn sàng thực hiện một cuộc hành quân nghi binh vào phía tây chân rặng núi Chuprong. Ngày 14 tháng 11, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ được trực thăng vận xuống LZ X-Ray, buộc Mặt Trận B3 phải đình chỉ tấn công trại Pleime và tập trung chú ý đối ứng với mối đe dọa mới:
Vì lẽ mục đích của Tiểu Đoàn 1 Không Kỵ khi đổ bộ bãi đáp X-Ray là nghi binh, nên nó được sắp đặt sao cho đối phương không phải sợ hãi hoảng bỏ chạy trước một mối nguy to lớn: cuộc đổ bộ được thông báo với 20 phút tiền pháo bắn phá ầm ĩ và một đoàn trực thăng gồm 16 chiếc đồng loạt xông tới bãi cách hùng hổ; thời gian đổ bộ được cố ý thực hiện lâu lắc cả 5 tiếng đồng hồ mới xong; tương quan lực lượng được duy trì ở mức 2:2 với hai Tiểu Đoàn 7 và 9 BV đối với hai Tiểu Đoàn 1/7 và 2.7 Không Kỵ, và khi cần tăng cường thêm với một tiểu đoàn, thì Tiểu Đoàn 2/5 được trực thăng đặt xuống đất tại bãi đáp Victor các 5 cây số và âm thầm lội bộ tiến vào bãi đáp X-Ray sau một hành trình 5 tiếng đồng hồ ngày 15 tháng 11; thế rồi ngày 16 tháng 11, khi đối phương nhận thấy tương quan lực lượng đã biến thàn 3:2 thì Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ được rút đi để lại hai Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 Không Kỵ tại bãi đáp X-Ray. Ngày 15 tháng 11 vào lúc 1600 giờ, các phóng pháo cơ B-52 khởi sự trải thảm bom tại trung tâm khối quanh YA 8702, khoảng 7.5 cây số tây bãi đáp X-Ray, nhắm vào các vị trí của các toán quân thuộc Trung Đoàn 32. Ngày 17 tháng 11, sau khi các Tiểu Đoàn 1/7, 2/7 và 2/5Không Kỵ rời bỏ bãi đáp X-Ray, các phóng pháo cơ B-52 trút bom xuống ngay bãi đáp, nhắm vào các toán quân của Trung Đoàn 66 còn lai vãng quanh vùng. . B-52 trải thảm bom trong 5 ngày kế tiếp:
Ngày 15 và 16 tháng 11, B-52 nhắm trải thảm bom vào các vị trí của các đơn vị thuộc Trung đoàn 33 và 32; ngày 17, 18 và 19, các đơn vị thuộc Trung đoàn 66; và ngày 25, các đơn vị thuộc Trung đoàn 32. Chiến dịch Pleime-Chupong-Iadrang Ngày 17 tháng 11, nguồn tình báo qua đài kiểm thính cho biết các cuộc oanh tạc B-52 khiến cho địch quân chết khoảng 2.000 chiến binh và hai Tiểu Đoàn 635 và 334 sống sót nhận được lệnh rút về Căm Bốt qua thung lũnh eo hẹp của sông Iadrang, tiểu đoàn thứ nhất dọng theo mạn bắc và tiểu đoàn thứ nhì theo mạn nam. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II lấy quyết định phái Nhóm Dù Việt Nam gồm 5 tiểu đoàn vào chiến trường để kết liễu trận chiến với cuộc hành quân Thần Phong 7. Ngày 18 tháng 11, một căn cứ yểm trợ pháo binh mới được thiết lập tại LZ Crooks (YA 875125), bảo vệ bởi Tiểu Đoàn 2/5 Không Kỵ. Nhờ vào nguồn tin tình báo chính xác, hai Tiểu Đoàn 3 và 6 Dù đổ bộ xuống vùng bắc sông Iadrang vào chiều ngày 18 tháng 11 để phục kích Tiểu Đoàn 635 tại YA 805080 ngày 20 tháng 11. Và cũng nhờ vào nguồn tin tình báo chính xác, bốn Tiểu Đoàn 5, 6, 7 và 8 Dù, sau khi lội qua sông Iadrang sang phía nam (Tiểu Đoàn 3 Dù trở lui về phía bắc để phá hủu ba trung tâm huấn luyện) thiết lập ổ phục kích và trận đánh Tiểu Đoàn 3354 tại YA 815070 ngày 24 tháng 11. Trận chiến kéo dài 38 ngày chấm dứt vào ngày 26 tháng 11:
Kết luận Sự thật về trận đánh Thunh Lũng Ia Drang do đó là môt cuộc hành quân trải thảm bom B-52, hỗ trợ bởi một lực lượng bộ chiến trong đó Sư Đoàn 1 Không Kỵ cài đặt và ghim các mục tiêu cho phóng pháo cơ B-52 nhắm thả bom. Chú thích bên lề: Một cuộc hành quân liên hợp Việt-Mỹ Chiến dịch Pleime là một cuộc hành quân liên hợp Việt-Mỹ với một phương thức hành động rõ rệt trong đó tình báo và khái niệm hành quân do QLVNCH cung ứng, và trong đó chỉ huy và điều quân của các lực lượng riêng rẽ (trong giai đoạn Pleime là Chiến Đoàn Đặc Nhiệm Thiết Kỵ VN; trong giai đoạn Chu Prong là Sư Đoàn 1 Không Kỵ HK; và trong giai đoạn Ia Drang là Nhóm Nhảy Dù VN). Cuộc hành quân trong giai đoạn Chu Prong được Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đặt tên là Trường Chinh, dịch sang tiếng Anh là Long Reach:
Tướng Westmoreland nhìn nhận vai trò chủ chốt của QLVNCH trong cuộc hành quân liên hợp này:
Các cấp chỉ huy Mỹ can dự trong cuộc hành quân liên hợp này gồm có: General DePuy, J3/MACV, Saigon; General Larsen, IFFV, Nha Trang, phụ trách các đơn vị Mỹ hành quân trong Quân Đoàn II; General Kinnard, 1st Air Cavalry Division, An Khe; General Knowles, 1st Air Cavalry Division/CP Forward, Pleiku. Tướng DePuy phụ trách phối hợp cuộc hành quân trải thảm B-52 với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II:
Có dấu chỉ Tướng DePuy cũng can dự mật thiết vào cuộc hành quân bộ chiến khi ông triệu hồi Đại Tá Hal Moore về Sài Gòn để tường trình cho ông:
Tướng Kinnard ủy quyền chỉ huy trực tiếp cuộc hành quân Long Reach cho Tướng Knowles. Tướng Knowles đặt bộ chỉ huy tiền phương cạnh bản doanh Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tại Pleiku. Tướng Kinnard và Tướng Knowles không hoàn toàn tự do điều hành cuộc hành quân Long Reach. Tướng Larsen thỉnh thoảng can thiệp trực tiếp vào chiến trường ban bố lệnh điều quân tác chiến:
Người chủ xướng toàn bộ kế hoạch của chiến dịch Pleime-Chuprong-Iadrang là Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II. Ông đã hoạch địch khái niệm hành quân dùng bom trải thảm B-52 để tiêu diệt ba Trung Đoàn Bắc Quân 32, 33 và 66 tại Chu Prong. Ông được nhắc tới ít nhất hai lần trong sổ nhật ký hành quân Ban 3/IFFV ghi chép về chiến dịch Pleime:
- (1) Vietnam War, 1961-1975, Wilson Center - (2) General Nguyen Nam Khanh, Quan Doi Nhan Dan magazine, 13/11/2005 - (3) Nguyen Huy Toan and Pham Quang Dinh, 304th Division, volume II, trang 19-42 - (4) General Vĩnh Lộc, Pleime, Trận Chiến Lịch Sử, trang 124 - (5) General Vĩnh Lộc, trang 94 - (6) General McChritian, J2/MACV, Intelligence Aspect of Pleime/Chupong Campaign, trang 6 - (7) General Vinh Loc, Why Pleime, chương III, trang 47 - (8) General Vinh Loc, chapter IV, trang 55 - (9) Project CHECO Report, The Siege of Pleime, 24 February 1966 - (10) General Vĩnh Lộc, trang 94 - (11) General Vĩnh Lộc, trang 101 - (12) G3 Journal/IFFV, 00/10 - (13) General McChristian, trang 16-44 - (14) General Kinnard, Pleiku Campaign, trang 67 - (15) General Kinnard, trang 73 - (16) General Kinnard, trang 76 - (17) General Nguyen Huu An, Chiến Trường Mới– Hồi Ức - (18) General Vinh Loc, chương VI, trang 97 - (19) General Vĩnh Lộc, trang 132 - (20) General Vinh Loc, Why Pleime, Preface - Có thể tham khảo các tài liệu nguồn trên trên mạng tại www.generalhieu.com Nguyễn Văn Tín
Tài liệu tham khảo
|