Trung Tá Hal Moore Bị Cấp Trên Khiển Trách?

Có một chi tiết mà Trung Tá Hal Moore không nhắc đến trong cuốn sách We were soldiers and young . Chi tiết này cũng được ghi nhận trong Sổ Nhật Ký của Ban 3/IFFV, Nhatrang ngày 15/11/1965

- 21:05G: 1st Cav (Col Beaty) Lt Col Moore sẽ tới Saigon 1130G sáng (để tường trình Gen DePuy).

Trung Tá Hal Moore viết trong sách nơi trang 216:

Vào khỏang giữa đêm ngày 15 tháng 11 Trung Tá Lieutenant Colonel Edward C. (Shy) Meyer, sĩ quan thừa hành 3rd Brigade, chuyển cho tôi một tin nhắn quái lạ: Bộ Tư Lệnh Tướng William Westmoreland muốn tai “rời X-Ray sáng sớm ngày mai đến Sàigòn để thuyết trình cho ông và ban tham mưu về trận đánh.” Tôi không thể tin là tôi được lệnh rút ra trước khi trận chiến chấm dứt! Tôi cũng lấy làm phân vân bộ tư lệnh sư đoàn hay lữ đoàn lại không dập tắt một lệnh lạc khó hiểu như thế trước khi nó tới bản thân tôi. Rõ ràng là chỗ đứng của tôi là cùng với quân lính của tôi.

“Để tường trình Gen DePuy”? Có thể Tướng DePuy cần tham khảo ý kiến của viên chỉ huy tại mặt trận LZ X-Ray trong việc lấy quyết định rút một tiểu đoàn không kỵ ra để khuyến dụ Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3 không thay đổi các vị trí hiện hữu của các đơn vị trước khi họ nhận thấy tương quan lực lượng của hai bên đã từ 2:2 chuyển sang 3:2 (1/7, 2/7 và 2/5 Air Cav đối chọi tiểu đoàn 7 và 9 BV). Tuy nhiên, lý do khiến Tướng DePuy triệu hồi Trung Tá Moore đang khi chiến trường còn đang nóng hổi, thật ra là để ban bố một lệnh khó nuốt. Có thể là ông đã gặp phải hay dự kiến sự phản kháng của Trung Tá Moore đối với một lệnh khó hiểu đi ngược lại sứ mạng nguyên thủy lùng và diệt địch khi xung kích trực thăng vận vào Chu Prong. Có thể là ông đã cho Trung Tá Moore biết là sứ mạng thật sự của Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ là một thế nghi binh nhằm hỗ trợ cho các cuộc oanh tạc B-52 và đã được hoàn tất và bây giờ để tiếp tục thực hiện khái niệm hành quân của chiến dịch, ông cần rút Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ ra trong giai đoạn tiếp.

Nếu một lệnh lạc như vậy mà không bị dập tắt bởi Đại Tá Broân hay Chuẩn Tướng Knowles at cấp lữ đoành hay sư đoàn tiền phương, lý do là vì hai viên chỉ huy này đã chuyển đạt tới Tướng DePuy là họ cảm thấy là Trung Tá Moore sẽ khó lòng mà chịu rút Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ ra trong khi trận chiến đang diễn tiến khốc liệt khi mà họ bắn tin thăm dò ý định là vào buổi sáng và buổi chiều ngày 15 tại bãi đáp. Trung Tá Moore viết nơi trang 202 và 210:

Khoảng 9:30 giờ, trước khi Trung Tá Tully tới nơi, Đại Tá Tim Brown đáp trực thăng xuống tham viếng mặt trận. (…) Trước khi rời đi, Đại Tá Brown nói với chúng tôi rằng chúng tôi đã thi hành nhiệm rất chu đáo nhưng giờ này tiểu đoàn sung độ của Trung Tá Tully trên đường tới nơi cùng vớ hai đại đội của Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ, rất có thể là ông rút chúng tôi khỏi X-Ray vào ngày hôm sau.

(…)

Khoảng độ nửa giờ sau khi chiến đoàn đặc nhiệm của Trung Tá Tully trở lui về X-Ray [4:30 giờ chiều] Chuẩn Tướng Richard Knowles gọi điện thoại xin phép đáp xuống bãi đáp. (...) Trước khi rời đi, Tướng Knowles nói với chúng tôi là có thể ông sẽ ra lệnh cho Đại Tá Tim Brown rút tiểu đoàn của tôi và các đơn vị tăng phái ra khỏi X-Ray vào ngày hôm sau và không vận chúng tôi trở về trại Holloway để dưỡng sức và tái trang bị.

Trung Tá Moore lên tiếng phản đối lệnh rút lui. Ông viết nơi trang 217:

Khoảng 1:30 giờ sáng, tôi gọi Trung Tá Shy Meyer và phát biểu lời phản đối kịch liệt lệnh trên. Tôi nói rất rõ ràng là trận chiến này chưa chấm dứt và chỗ đứng của tôi là cạnh quân lính tôi – rằng tôi là người đầu tiên của tiểu đoàn đặt chân vào bãi chiến trường giết chóc khốc liệt này và rằng tôi quyết tâm là người sau chót rời đi. Chấm hết. Tôi không nghe gì thêm về vấn đề này nữa.

Điểm đáng quan tâm là lệnh được chuyển đạt đến Trung Tá Moore bởi chính Đại Tá Brown, mà lại là Trung Tá Meyer Meyer, sĩ quan thừa hành của 3rd Brigade.

Lý do Đại Tá Moore 'không nghe gì thêm về vấn đề này nữa' vì ông có nói với Đại Tá Meyer là ông sẽ không phản đối việc rút tiểu đoàn ra giữa lúc trận chiến đang nóng bỏng vào hôm sau miễn là ông được phép là 'người sau chót của tiểu đoàn rời đi'.

Moore không ý thức được là ông may mắn chừng nào. Nếu không lời cuối cùng mà ông nghe được sẽ là, 'anh bị cách chức chỉ huy Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ', giống như trường hợp của Đại Tá Stockton, Tiểu Đoàn Trưởng, Thiết Đoàn 1, Trung Đoàn 9 bị Tướng Knowle cách chức ngày 2 tháng 11 vì thái độ thiếu kỷ luật trong một cuộc hành quân phục kích thành công. Moore viết nơi trang 33:

Thế điều quân cứu vãn ngày hôm đó, nhưng cũng đốt cháy con ngỗng của Stockton: Tướng Knowles nói là ông đã ra lệ̣nh Stockton phải được phép ông trước khi xung toán lính của Đại Đội Alpha của Ted Danielsen vào trận chiến. Biến cố này khiến Stockton bị thuyên chuyển vào một công việc tham mưu tại Sàigòn, và sư đoàn mất đi một trong số tiểu đoàn trưởng gây tranh cãi và thành công nhất.

Dù thế nào đi nữa thì việc bốc xuấ̀t Tiểu Đoàn1/7 Không Kỵ – và Đại Đội B/2/7 Không Kỵ – được tuyên bố vào lúc 11:00G ngày 16 tháng 11 được ghi nhận trong Sổ Nhật Ký Ban 3/IFFV:

- 11:00G: 1st Cav Adv Maj Boyle – Lúc 0735G 2/7 giễt 8 VC đếm xác, khoảng 100 chết trong vùng. 1/7 và B/2/7 sẽ được bốc xuất về trại Holloway khi đụng độ với địch ngưng. Không biết khi nào.

Và lúc 11:35G:

- 11:35G: 1st Cav Maj Turner – (mật mã) – Kế hoạch hiện tại bốc xuất 1/7 và B/2/7 hôm nay, lui lại 2000 thước tới tuyến phòng thủ.

Về phía Trung Tá Moore, ông viết trong We Were Soldiers Once… and Young, trang 229:

Lúc 10:40 sáng, với hai tiểu đoàn mới mẻ – Tiểu Đoàn 2/5 Không Kỵ của Bob Tully và Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ của Bob McDade – đã hiện diện tại hoặc đang đổ bộ vào X-Ray, Đại Tá Tim Brown ra lệnh cho các chiến binh mệt mỏi còn sống sót của Tiểu Đoàn 1/7 của tôi chuẩn bị rút đi để dưỡng sức. Brown chủng nói với chúng tôi là Đại Đội B/Tiểu Đoàn 2 của Đại Úy Myron Diduryk và trung đội thuộc Đại Đội A/Tiểu Đoàn 2 của Trung Ú Sisson, từng chiến đấu bên cạnh chúng tôi, cũng sẽ hưởng cơ hội dưỡng sức và tái trang bị. Chúng tôi sẽ chuyển vận bằng trực thăng Huey tới bãi đáp Falcon, và từ đó dùng trực thăng CH-47 Chinook bay tới Trại Halloway tại Pleiku.

Sự kiện Tướng DePuy, Tham Mưu Trưởng J3, MACV, điều hành các phi vụ oanh tạc chiến lược B-52, trực tiếp tham gia vào trận đánh LZ X-Ray, là một dấu chỉ hành động chính tại trận đánh này là oanh tạc B-52 và Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ đóng vai trò thứ yếu hỗ trợ, trái với sự hiểu biết chung cho là oanh tạc B-52 hỗ trợ cho bộ chiến.

Quả thật vậy, Tướng DePuy thi hành khái niệm hành quân do Ban 3/Quân Đoàn II điều nghiên (Sổ Nhật Ký Ban 3/IFFV, 15/11/1965):

- 10:30G: MAVC J3 (Gen DePuy) Gen DePuy gọi Col Barrow và hỏi Arc Light đã được thông qua với Tư Lệnh QĐ II chưa. Col Barrow trả lời rồi, Tư Lệnh QĐ II đã chấp thuận Arc Light. Đồng thời DePuy muốn biết nếu đơn vị của 1st Cav đã nhận giới hạn áp đặt lúc 151600G cấm không được vượt qua phía tây của lằn rang ô vuông YA chưa. Col Barrow thông báo Gen DePuy là 1st Cav đã đáo nhận giới hạn và sẽ tuân theo. Gen DePuy đích thân thay đổi đồ hình mục tiêu.

Kế hoạch này đã được J3/MACV phối hợp cùng Ban 3/Quân Đoàn II điều nghiên từ tháng 9 năm 1965, trước khi Cộng Quân phát động chiến dịch Plâymê tấn kích vào trại Pleime ngày 19 tháng 10 năm 1965 (Khía Cạnh Tình Báo của Chiến Dịch Pleime-Chuprong , trang 6):

Căn cứ Chu Prong được biết là đã được tạo lập lâu trước cuộc tấn công Pleime và Ban 2 MACV đã chấm lấy vùng này để nghiên cứu vào tháng 9 năm 1965 như là có thể làm mục tiêu cho B-52..

Tướng Knowles tiết lộ chủ đích cho đổ bộ các toán quân Không Kỵ tại LZ X-Ray ngày 14 tháng 11 là “Chộp con hổ đằng đuôi” và đập đầu nó với oanh tập B-52 từ ngày 15 đến 16 tháng 11. Ông cũng giải thích lý do rút quân ra khỏi LZ X-Ray ngày 17 tháng 11 và di chuyển quân tới LZ Albany là để “nắm lấy đuôi hổ từ một hướng khác” đồng thời tiếp tục đập đầu nó với bom B-52 từ ngày 17 đến 20 tháng 11.

Nguyễn Văn Tín
Ngày 1 tháng 7 năm 2014

Cập nhật ngày 29/11/2015

Tài liệu tham khảo

- Chính

- Sách báo

* Pleiku, the Dawn of Helicopter Warfare in Vietnam, J.D. Coleman, St. Martin's Press, New York, 1988.

* We Were Soldiers Once… and Young, General Harold G. Moore and Joseph L. Galloway, Random House, New York, 1992.

* "First Strike at River Drang", Military History, Oct 1984, pp 44-52, Per. Interview with H.W.O Kinnard, 1st Cavalry Division Commanding General, Cochran, Alexander S.

* The Siege of Pleime, Project CHECO Report, 24 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

* Silver Bayonet, Project CHECO Report, 26 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

- Việt Cộng

generalhieu