Đoạn Trích Các Ghi Chú Lịch Sử Của Tướng Westmoreland (29/8-29/11-1965)
Liên Quan Đến Chiến Dịch Pleime-Chuprong-Iadrang

Chủ Nhật 29 Tháng 8

*Tiếp sau chúng tôi bàn luận Kế Hoạch Chiến Dịch Toàn Quốc của Tướng Thắng và Tướng DePuy, hai trưởng phòng J3 tham mưu. Cả hai chúng tôi đều đồng ý đây là một kế hoạch tốt, nhưng tôi nêu lên là chắc chắn phải cần được biến cải tùy vào đòi hỏi của tình thế. Tôi thúc giục ông cần chỉ cho một số tối thiểu biết đến kế hoạch này. Ông xác định là chỉ có một mình ông và trưởng phòng J3, ông sẽ không bao gồm đến cả Tham Mưu Trưởng của mình. Điều này quan trọng vì các điệp viên Việt Cộng đã xâm nhập vào chính phủ đến mức độ có thể cho là xảy ra thất thoát nếu có nhiều hơn một ít người biết kế hoạch.

*Tôi bàn luận chương trình oanh kích B-52 với Tướng Có và đặc biệt quan tâm ông biết đến cuộc oanh tạc ấn định cho ngày 2 tháng 9 tại Rừng Hố Bò và cuộc hành quân bộ chiến tiếp sau của một đơn vị thuộc Sư Đoàn 5.

Thứ Bảy 18 Tháng 9

*Chúng tôi mong đợi một cuộc oanh kích B-52 vào sáng ngày 17 tháng 9 nhằm hỗ trợ cho một cuộc hành quân của Lữ Đoàn 173 nhưng vào lúc 11 giờ tối trước ngày tấn kích thì bị hủy bỏ. Cuộc oanh kích được yêu cầu dựa vào một số tình báo tuyệt vời và tôi đã đích thân đã bảo đảm ngôi làng kế bên không bị đe dọa. Chúng tôi nghĩ là cuộc oanh kích đã được chấp thuận và đã có kế hoạch phù hợp cho đến khi chúng tôi nghe là Bộ Ngoại Giao đã không cho phép. Tham Mưu Trưởng và trưởng phòng J3 thức thâu đêm gắng sức hoạch định thay thế với một cuộc oanh kích tác chiến khác. Thời tiết không cho phép cuộc oanh kích tác chiến có thể thực hiện được vào ngày 17 tháng 9 nên phải đình chỉ đến ngày 19. Tôi nhân dịp hành động ngăn cấm các kế hoạch quân sự này để gửi một thông điệp đặc biết cho Chủ Tịch của JCS (Ủy Ban Liên Hợp Các Tham Mưu Trưởng) trưng ra các sự kiện, công kích sự can thiệp chống đối một cuộc hành quân quân sự đã được điều nghiên kỹ lưỡng, và gợi ý là các cuộc oanh kích B-52 được phân cấp [SSO Msg. MAC 4679, 181315Z September, (S)]. Tôi không mong đợi điều này được chấp thuận vì các cấp cao hơn đã giả định hương vị của các trả lời của tôi.

*Tướng DePuy là một sĩ quan tham mưu giỏi nhất tôi như tôi chưa từng có.

Chủ Nhật 17 Tháng 10

*Tôi lo ngại về các báo cáo rằng Tướng Vĩnh Lộc Tư Lệnh Quân Đoàn II đang tự ý mà không cần phối hợp hành xử đối với các lực lượng Mỹ. Tôi đặc biệt muốn có lợi ích của các quan sát của Đại Tá Mataxis trước cuộc họp ngày hôm sau với Tướng Vĩnh Lộc và Tướng Có tại Qui Nhơn.

Chủ Nhật 18 Tháng 10

*Thứ hai tôi cùng đi với Tướng Có và Tướng Viên tới Qui Nhơn để họp với Tướng Vĩnh Lộc, Tướng Larsen, và Đại Tá Mataxis. Tôi đem theo quyền trưởng phòng J3, Tướng Collins, cùng với tôi. (…)

Trong khi bàn luận, Tướng Viên chuyển đạt mội quan ngại của Tướng Vĩnh Lộc cho tôi. Tướng Vĩnh Lộc coi Đại Tá Mataxis là đối tác của ông. Nhưng, Đại Tá Mataxis tuân trình cho Tướng Larsen thuộc Field Force, Vietnam, do đo đặt Tướng Vĩnh Lộc ở một cấp bậc thấp hơn Tướng Larsen. Điều này khiến ông và cấp dưới ông lấy làm lúng túng vì lẽ tình trạng này ngụ ý là Tư Lệnh Quân Đoàn QLVNCH dưới quyền một bộ tư lệnh Mỹ. Tôi giải thích không phải như vậy, và để làm sáng tỏ vấn đề, tôi nói đây là cách thức tại Quân Đoàn I nơi mà Tướng Walt và Tướng Thi có mối tương giao như vậy. Tôi nói là nguyên thủy tôi không làm như vậy tại Quân Đoàn II vì lẽ Tướng Larsen không ngụ tại Pleiku, nhưng tôi có dự tính một thay đổi và sẽ thực hiện ngay lập tức. Coi bộ ai nấy đều lấy làm hài lòng và hy vọng sẽ giải quyết vấn đề khiến tướng Vĩnh Lộc quan ngại. Người Việt nhạy cảm trong vấn đề này và tôi không muốn đụng chạm cảm tính vì bổn phận của chúng ta là xây dựng niềm hãnh diện và tự tinh của họ ngõ hầu hy vọng một ngày họ sẽ đứng vững trên chân họ. Vấn đề đại loại như vậy cần được vui vẻ chấp nhận.

Thứ Ba 19 Tháng 10

*Tôi tiếp nhận một buổi tường trình từ các sĩ quan thuộc Sư Đoàn 1 Không Kỵ về các cuộc hành quân mới đây của họ.

Thứ Năm 28 Tháng 10

*Thứ năm tôi bay lên Pleiku và từ đó tới bộ chỉ huy của Lữ Đoàn 1 cuả Sư Đoàn 1Không Kỵ. Lữ Đoàn chỉ huy bởi Trung Tá Harlow Clark coi bộ tinh thần tốt và đang tìm cách xác định vị trí của Việt Cộng trong vùng quanh Trại Pleime. Tuy bỏ ra nhiều công lực, nhưng họ không đạt được mấy kết quả. Tôi khuyến khích họ trong mấy ngày tới di chuyển đến một vùng phía tây hướng tới biên giới Căm Bốt kế cận Trại Đức Cơ. Tới ước tính sẽ đến lúc Việt Cộng xâm nhập trở lại về các vùng căn cứ của chúng dọc theo biên giới Căm Bốt và Lữ Đoàn có thể đạt một thành quả trong việc thâu tóm chúng.

*Trước buổi họp Hội Đồng Tư Vân Liên Hợp Việt/Mỹ, thủ Tướng Kỳ mời tôi đến gặp ông, và tôi chấp nhận đến gặp lúc 1500 giờ. Ông muốn nói với tôi về nhận định của tôi về Tướng Vĩnh Lộc thuộc Quân Đoàn II vì ông nghe nói là tôi nghĩ Tướng Vĩnh Lộc không đủ tài làm công việc của ông. Tôi thẳng thắn thảo luận quan điểm của tôi về Tướng vĩnh Lộc với Kỳ và ông đồng ý trù tính bổ nhiệm một số chức vụ mới, nhưng ông xin cho ông một ít thời gian. Tôi nói với ông là tôi hoàn toàn hiểu vấn đề chính trị liên quan và ông có thể yên tâm là tôi sẽ không tiết lộ bất cứ điểm thảo luận nào tôi đã có với ông hay Tướng Có về vấn đề này. Tôi đã bán luận về cấn đề của Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn với Tướng Có hai hôm trước và ông dường như đã đề cập tôi thiếu tin tưởng vào Vĩnh Lộc cho Tướng Kỳ, Thiệu và những người khác sau buổi lễ khánh tiết tại Pleiku ngày thứ tư.

Chủ Nhật 31 Tháng 10

*Sáng chủ nhật 31 tháng 10, tôi khởi hành sớm tới Nha Trang để bàn thảo với Tướng Larsen vêt cuộc hành quân của Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Tôi hối thúc ông giữ Sư Đoàn 1 Không Kỵ tại Pleiku và chuyển vùng hành quân về hướng biên giới Căm Bốt theo giả thuyết là Việt Cộng từng tấn công Trại Pleime có thể kéo vê hướng tây tới các vùng căn cứ của chúng gần Căm Bốt.

Thứ Bảy 6 Tháng 11

*Trong ngày tôi có dịp nói chuyện với Tướng Larsen, Đại Tá Mataxis và Tướng Kinnard. Tôi chúc mừng Tướng Kinnard về những thành quả các đơn vị sư đoàn ông đạt được tại Pleiku và nói lướt qua nhận xét của tôi thấy rằng coi bộ họ đã vượt qua khỏi được mặc cảm "prima madonna" (bà hát hay nhất).

Thứ Năm 18 Tháng 11

*Ngày thứ năm, Tướng Viên và tôi bay lên Pleiku để thăm viếng Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ chỉ huy bởi Trung Tá Hal Moore. Trước sự hiện diện của ban tham mưu tiểu đoàn, Moore tường trình về cuộc hành quân đã xảy ra đầu tuần và tôi rất đỗi khâm phục công việc thực hiện cách chuyên nghiệp của Moore, ban tham mưu, các đơn vị hỗ trợ và tính chuyên nghiệp nói chung thật là hiển nhiên. Moore hết sức khen ngợi binh sĩ của mình và hỏi tôi có muốn nói chuyện với họ không. Sau khi tôi thăm viếng một số đại đội đã bị tổn thương nặng nề trong của hành quân, ông tập họp tiểu đoàn và tôi nói nói chuyện với họ mười phút và nói với họ là kiến nghị tặng thưởng Tổng Thống Ban Khen Tiểu Đoàn đang được cứu xét. Không hề có chút vấn đề tiểu đoàn này đáng được khen thưởng vì họ đã chứng tỏ vượt bực trong một trận chiến có lẽ khó khăng nhất từ trước tới giờ trong cuộc chiến.

Tiếp sau đó tôi bay xuống thăm viếng lữ đoàn chỉ huy bởi Đại Tá Tim Brown. Tôi nghe ông tường trình và chúng tôi bay trên vùng hành quân. Tôi có một buổi họp với Tướng Vĩnh Lộc, Tướng Larsen và Đại Tá Timothy và chúng tôi đồng ý về các kế hoạch đồng thuận với các kế hoạch tôi đã thảo luận ngày hôm trước với Tướng Viên.

Tiếp sau đó tôi bay xuống Qui Nhơn thăm viếng binh sĩ nằm trong bệnh viện. Hầu hết họ là binh sĩ của Sư Đoàn 1 Không Kỵ bị thương trong cuộc hành quân mới đây tại Pleiku. Trong khi trò chuyện với họ tôi bắt đầu cảm thấy tôi đã không được báo cáo đầy đủ thông tin khi tôi thăm viếng Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 2 Không Kỵ. Một số trong họ nói với tôi họ đã tham dự vào một cuộc chiến mà họ gọi là một trận phục kích. Số đông thuộc Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ. Trong khi ở tại bệnh viện tôi bước vào hai phòng giải phẩu và khâm phục mức độ phức tạp của pha giải phẩu đang được thực hiện trước mắt. Bệnh viện này được một nhân sự chuyên nghiệp rất cao trông coi và họ đã cứu sống rất nhiều binh sĩ trong những tuần qua. Thật là một nguồn cảm hứng đối với tôi trước gì họ đã làm để hàn gắn những vết thương nặng của binh sĩ.

*Một việc khác xảy ra buổi chiều. Sau khi trở về văn phòng sau chuyến bay lên Pleiku, Đại Tá Legare bước vào và thông báo tôi là có một tin động trời đã được loan tải với lời lễ chỉ trích nặng nề về Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Tôi không mấy ngạc nhiên vì lẽ tôi đã nghi ngờ đến chuyện này sau khi nói chuyện với các binh sĩ tại bệnh viện. Tiếp đó tôi gọi Tướng Larsen và nói ông thu góp các sự kiện. Kết cục là sự thật cho thấy là không một ai, kể cả lữ đoàn trưởng, hay biết gì về việc gì đã xảy ra. Tuy nhiên, ngày hôm sau, chúng tôi sàng lọc vấn đề và nhận định là Tiểu Đoàn 2/7 đụng độ mạnh với một bộ phận Bắc Quân tại vùng cắm trại và xảy ra nhiều cuộc cận chiến. Đơn vị Bắc Quân hứng chịu thiệt hại nặng nhất và triệt thoái. Tiểu Đoàn 2/7 lục soát thu gom số binh sĩ bị chết và bị thương từ bãi chiến trường. Một số binh sĩ chúng ta bị bỏ lại trên bãi chiến trường trong thời gian buổi chiều, vì các cỏ voi cao khiến cho tìm thấy tử thi rất là khó khăn. Cỏ cao cũng che đậy đơn vị Bắc Quân, cho phép chúng tạo được bất ngờ tuy chính họ cũng coi bộ hết đỗi bất ngờ. Tôi nói Đại Tá Legare phái một chuyến bay chở đầy dân báo chí ngày hôm sau ngõ hầu nghe tường trình thật sự gì đã xảy ra. Điều này đã được thực hiện và coi bộ đạt được mục đích. Trong khi đó một số sự vụ bất hạnh được ra hàng tít lớn trong các tờ báo Hoa Thịnh Đốn, mà chúng tôi nghe được ngày hôm sau.

Thứ Sáu 19 Tháng 11

*Ngày thứ sáu tôi gặp gỡ Đại Sứ Lodge và tường trình ông về trận đánh Pleiku và thông tin của chúng tôi nói rằng các toán quân Bắc Việt hiện diện tại Căm Bốt như tôi đã gửi ông xem xét tình trạng tại đó.

*Tướng DePuy từ Pleiku trở về. Tôi phái ông lên đó vì tôi quan ngại là Sư Đoàn 1 Không Kỵ và đặc nhiệm dù có thể liên hệ vào tình thế quá sức họ, và một nếu lực lượng trừ bị QLVNCH bị đấm chảy máu mũi thì sẽ phương hại tới tinh thần của chính phủ. Hơn nữa, tôi sợ một trận chiến khốc liệt kéo dài sẽ làm Sư Đoàn Không Kỵ mệt mỏi tới độ không đủ sức cáng đáng sứ mạng trong những tuần tới. Tôi yêu cầu DePuy xem xét tất cả mọi yếu tố và trường trình lại cho tôi. Sau khi nói chuyện với tất cả các cấp chỉ huy và cố vấn liên hệ, ông đề nghị là giai đoạn hành quân mới giới hạn phía bắc sông Ia Drang vì khúc sông mực nước thấp có thể lội bộ qua được và do đó giảm thiểu cơ nguy các cuộc hành quân bất thành, đặc biệt cho quan dù QLVNCH.

Thứ Bảy 20 Tháng 11

*Sáng thứ bảy sau buổi tường trình tình báo, tôi bảo hai trưởng phòng J2 tình báo và J3 tham mưu khai triển một sắp xếp đáp ứng với SAC (Chỉ Huy Không Quân Chiến Lược) rtrong các mục tiêu oanh kích tình báo khám phá được. Chúng ta đã thực hiện được nhiều tiến bộ thật sự với Sư Đoàn 3 Không Quân và SAC trong những tuần mới đây và tôi muốn duy trì áp lực trên họ và thủ đắc thêm nhiều tiến triển. Tôi muốn có thể thu ngắn một oanh kích B-52 xuống bảy tiếng kể từ khi có được tình báo khả thi.

*Lúc 1000 giờ, tôi có buổi họp báo hàng tháng về bối cảnh. Tôi khởi đầu với duyệt xét một số xu hướng trong cuộc chiến, nói sơ qua công dân vụ, phân phát một bản tin, nói lên ước vọng quảng bá các chiến thắng quân sự của QLVNCH cân xứng với các chiến thắng của các toán quân Mỹ, và rồi đến trước bản đồ và trình bày khái niệm của tôi về thế chiến lược Việt Cộng. Tôi bàn tới trận chiến tại Pleiku bắt đầu bằng cuộc tấn công Trại Pleime và đi qua tới các giai đoạn kế tiếp [Ghi chú về Trận Pleime, đính kèm]. Tôi đọc một điện tín tôi nhận từ Bố Quốc Phòng trích dẫn các tít lớn từ Washington Post và Star nói về cuộc triệt thoái và rút lui của Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Tiếp đến tôi giải thích cho họ là tôi rất kính trọng ngành báo chí và phan phát một bản sao ghi các nhận định tôi đề cập tại cuộc họp với các Sĩ Quan thông tin [bản sao đính kèm].Tôi nhắc nhở họ là tôi chống đối kiểm duyệt báo chí và công khai hóa điều này. Ngoài ra tôi nhấn mạnh tôi cộng tác với báo chí vì tôi ghi nhận vai trò của họ nhưng tôi không có ý định cộng tác tới mức độ phá hoại nỗ lực của chúng ta. Tôi xác định là các tin như loại trong các tờ báo Hoa Thịnh Đốn đang có những hậu quả sau:

1.Bóp méo hình ảnh tại quốc nội và hạ thập tinh thần những người có liên hệ tình cảm với sự vụ (vợ binh sĩ).

2. Hạ tấp tinh thần quân lính.

3. Cung cấp thông tin cho địch quân về thành quả của chúng và lỗi lầm và yếu điểm của chúng ta.

4. Cung cấp thoải mái cho địch quân và gây chúng hiểu lầm về sức mạnh của chúng ta.

5. Làm mất uy tín của chúng ta đối với Đồng Minh.

*Tướng McChristian và tôi lại chơi quần vợt với Đại Sứ Anh Quốc và viên cố vắn của ông cạnh Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam.

Thứ Năm 25 Tháng 11

*Tôi thăm viếng Chiến Đoàn Đặc Nhiệm Dù tại Đức Cơ cùng với Lữ Đoàn 2 của Sư Đoàn 1 Không Kỵ và một Đơn Vị Lực Lượng Đặc Biệt. Tướng Đống của Lữ Đoàn Dù có mặt và rất hài lòng với sự hỗ trợ ông tiếp nhận được từ Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Các cuộc hành quân của họ coi vẻ được hoạch định kỹ càng và được thực hiện trong sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ tư lệnh liên hệ.

*Tại An Khê, Tướng Kinnard gặp tôi và tôi thăm viếng Tiểu Đoàn 2/7 từng can dự mật thiết trong trận đánh mới đây và hứng chịu nhiều tổn hại.

Thứ Sáu 26 Tháng 11

*Ngày thứ sáu chúng tôi có cuộc họp thường xuyên của Hội Đồng Tư Vân Liên Hợp Việt/Mỹ trong đó đặc trưng một báo cáo tình trạng quân sự của Tướng Viên. Tôi được yêu cầu bình luận tiếp sau tường trình của một thành viên tham mưu của Viên, trong đó tôi nghĩ đó là một phân tách tuyệt diệu và nhấn mạnh một trong những lý do khiến thành công là sự phối hợp và cộng tác chặt chẽ giữa các lực lượng và cố vấn Mỹ với Việt Nam. Tôi chỉ ra trong số những thứ khác là tôi nghĩ mối quan hệ làm việc tuyệt vời này mang tính cách duy nhất trong biên niên sử của lịch sử quân sự.

(trích từ General Westmorland’s History Notes)

Tài liệu tham khảo

- Chính

- Sách báo

* Pleiku, the Dawn of Helicopter Warfare in Vietnam, J.D. Coleman, St. Martin's Press, New York, 1988.

* We Were Soldiers Once… and Young, General Harold G. Moore and Joseph L. Galloway, Random House, New York, 1992.

* "First Strike at River Drang", Military History, Oct 1984, pp 44-52, Per. Interview with H.W.O Kinnard, 1st Cavalry Division Commanding General, Cochran, Alexander S.

* The Siege of Pleime, Project CHECO Report, 24 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

* Silver Bayonet, Project CHECO Report, 26 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

- Việt Cộng

generalhieu