“We Were Soldiers Once ... and Young” Sau trận đánh Ia Drang, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tuyên dương gương anh dũng của Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ với huy chương Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu. Tiểu Đoàn của Trung Tá Moore là đơn vị tăng phái cho lực lượng của Quân Đoàn II trong chiến dịch Pleime. Năm 1992, Trung Tướng Hal Moore và Joe Galloway xuất bản cuốn sách We Were Soldiers Once ... and Young để “nói cho dân chúng Mỹ Quân Lính trong trận đánh anh dũng chừng nào. Nói cho họ biết họ đã thực hiện một công việc to lớn và chúng ta có một Quân Đội to lớn chừng nào” (Brian Sobel, 10 Questions for General Hal Moore). Trong lời thuật về trận đánh hào hùng, Moore đã tự đề cao trong hai khía cạnh: vai trò được giao phó trong trận đánh và mức độ nguy hiểm trong tíến trình của trận đánh. Sứ Mạng Được Giao Phó Moore được giao phó sứ mạng ghim ba Trung Đoàn Việt Cộng – 32, 33 và 66 – tại các vùng tập trung chuẩn bị xuất quân tấn công trại Pleime lần thứ hai, bằng cách thực hiện một cuộc xâm nhập trực thăng vận tại chân rặng núi Chu Prong, sát cạnh vị trí của Trung Đoàn 66, lực lượng chính trong cuộc tấn công thứ hai này. Một khi thế nghi binh đánh lạc hướng địch hoàn tất, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ sẽ được rút ra ngay. Trung Tá Moore không đọc được ý định của cấp trên và lầm tưởng ông được phái đi lùng và diệt địch quân. Do đó, sáng ngày 15 tháng 11, ông từ chối nhường quyền chỉ huy chiến trường tại bãi đáp X-Ray cho Đại Tá Tim Brown, khi ông này đáp xuống X-Ray để thiết lập một ban chỉ huy lữ đoàn tiền phương để điều động cuộc hành quân và thực hiện cuộc triệt thoái của Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ với thế hoán chuyển quân với hai Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 Không Kỵ. Thái độ đề kháng của Moore đã đưa đến sự can thiệp kế tiếp của Chuẩn Tướng Knowles tại cấp Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Tiền Phương và của Tướng Westmoreland/DePuy tại cấp Bộ Tư Lệnh MACV. Qua chính ngòi bút ông, Moore viết trong cuốn sách We Were Soldiers Once ... and Young :
Rõ ràng là Moore đã hiểu lầm vai trò của ông chỉ là thứ yếu đối với vai trò chính yếu của các phi vụ oanh tạc B-52 trong việc triệt tiêu ba trung đoàn Việt Cộng tại Chu Prong khi ông từ chối rút tiểu đoàn cho là trận đánh chưa chấm dứt và không nhìn nhận là vai trò giao phó đánh lạc hướng chú ý của địch quân đã hoàn tất và sự hiện diện của tiểu đoàn của ông không cần thiết nữa. Thế nghi binh được hoạch định như sau: một khi cuộc đổ quân gây được chú ý khiến Mặt Trận B3 đình chỉ xuất quân tấn công trại Pleime, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ sẽ rút đi. Tiểu đoàn sẽ được tăng phái với số đơn vị tương xứng với lực lượng phản công của đối phương. Cuộc hành quân đã được thực hiện như sau: - Khoảng trưa ngày 14 tháng 11, Tướng Knowles hay tin là Mặt Trận B3 quyết định phản công với chỉ hai Tiểu Đoàn 7 và 9 thuộc Trung Đoàn 66. Ông tăng phái thêm một tiểu đoàn cho lực lượng tấn kích trực thăng vận (Coleman "Pleiku, the Dawn of Helicopter Warfare in Vietnam", St. Martin’s Press, New York, 1988, trang 219):
- Khoảng chiều tối ngày 14 tháng 11, Tướng Knowles quyết định tung vào thêm Tiễu Đoàn 2/5 Không Kỵ để chuẩn bị rút Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ dự định vào ngày 16 (1/7 AC after action report):
Điều Hành Tình Trạng Quân Sự tại Bãi Đáp X-Ray Moore nhìn nhận là Tướng Knowles và Đại Tá Brown rất kỹ lưỡng khi điều hành cuộc hành quân tấn kích trực thăng vận tại bãi đáp X-Ray (Moore, trang 38):
Tướng Knowles và Đại Tá Brown đã cẩn trọng thu xếp sao cho Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ sẽ chỉ phải gắp nguy cơ tối thiếu trong việc thi hành thế nghi binh trong ba lãnh vực: - 1/ Các toán quân Việt Cộng không có súng phòng không để bắn hạ các trực thăng chuyển quân đổ bộ và bích kích pháo hặng nặng để đánh vùi dập các toán quân bộ binh Mỹ trước khi xung phong (Why Pleime, chương V):
Các trực thăng chuyển vận quân, đạn dược, tiếp liệu và tải thương bị trúng đạn tại bãi đáp X-Ray là do từ các loại súng nhỏ mà thôi. Tướng Kinnard cũng ghi nhận là (Pleiku campaign, trang 88):
- 2/ Trong suốt trận chiến, số lượng các đơn vị Mỹ tại bãi đáp (1/7, 2/7 và 2/5) luôn ít nhất bằng nếu không trội hơn hai Tiểu Đoàn phản công 7 và 9 thuộc Trung Đoàn 66 (Tướng Nguyễn Hữu An, Hồi Ức):
- 3/Nhờ vào tin tình báo tức thời tiếp nhận được từ các đài kiểm thính liên lạc vô tuyến phía địch do Ban 2 Quân Đoàn II cung cấp, Tướng Knowles và Đại Tá Brown biết chính xác mọi dự tính, tính toán và điều quân xuất phát từ Mặt Trận B3 Tiền Phương: quyết định đình chỉ tấn công trại Pleime và chỉ phản công lại với duy hai tiểu đoàn. Việc theo dõi tin tình báo tức thời cũng cho phép Tướng Knowles và Đại Tá Brown ước lượng mức độ áp lực của đối phương đối với các toán quân Không Kỵ Mỹ tại bãi đáp X-Ray và cho phép hai người biết là khi nào an toàn để đáp xuống bãi đáp X-Ray vào lúc 4 giờ 30 chiều (Knowles) và lúc 9 giờ 30 sáng (Brown) ngày 15 tháng 11. - 4/Hơn nữa, một khi được đổ bộ xuống LZ X-Ray xong, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ của Hal Moore được một vòng thép do pháo binh sư đoàn thiết lập bảo vệ. Hơn nữa, Knowles còn ra lệnh bắn phá “mọi nẻo đường rừng vào ra vùng trận địa 24 trên 24 tiếng đồng hồ” - để ngăn chận không cho phép các toán quân của Trung Đoàn 32 và 33 kéo tới vùng bãi đáp. (Richard T. Knowles Collection, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University, p. 4) Trong bản Tường Trình Sau Trận Đánh của Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ, Moore lấy làm ngạc nhiên là, khoảng 7 giờ 30 sáng ngày 15, nhu cầu tăng viện của ông đã được Đại Tá Tim Brown, Lữ Đoàn Trưởng, tiên đoán tối hôm trước:
Moore cũng được cho biết là Đại Tá Tim Brown đã chuẩn bị sẵn sàng Tiểu Đoàn 2/5 Không Kỵ tăng phái cho Tiểu Đoàn1/7 và 2/7 Không Kỵ từ chiều tối ngày 14 tháng 11:
Moore không hay biết là Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ sẽ được thay thế bởi hai Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 Không Kỵ. Kịch Hóa Sư Kiện Moore lấy điểm khi gán cho mình công chọn lựa bãi đáp X-Ray. Ông viết nơi trang 64 của cuốn sách:
Tướng Knows có ý kiến khác. Jack Swickard viết trong bài, "Friendship with military legend", Tâm giao với một huyền thoại quân sự (Swickardworld, Friday, October 11, 2013):
Moore quan trọng hóa số phận của Trung Đội 2, Đại Đội B, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ khi trung đội này bị địch quân cô lập trong sách We Were Soldiers Once ... and Young , trang 76-77, 103, 138, 165-66, 206, 208, 209. Điều này được chỉnh sửa bởi
Herren phát biểu tại buổi họp ngày 2 tháng 5 năm 2012 tại Fort Benning, GA. Moore mô tả tình thế tại chiến trường “nóng” hơn là trên thực tế khi ông khiến cho Trung Úy Charles Hastings, liên lạc viên không quân, xử dụng mật hiệu Broken Arrow khoảng 7 giờ sáng ngày 15 tháng 11, trong sách We Were Soldiers Once ... and Young , trang 175, như thể các đơn vị dưới quyền ông sắp bị xung phong tràn ngập tới nơi:
Moore mô tả tình hình vào thời điểm đó một cách bình thản hơn trong bản tường trình sau trận đánh của TĐ 1/7 KK:
Cũng chính là vào thời điểm này Đại Tá Brown lấy quyết định đáp xuống bãi đáp X-Ray, biết rõ là tình hình an toàn, chứ không bất an như Moore nói (Moore,trang 202):
Vì không ý thức được vai trò thứ yếu của mình, Moore lấy làm bất bình khi tiểu đoàn của ông được lệnh rút ra trong khi trận đánh chưa chấm dứt và bám chặt vào quyền chỉ huy tiểu đoàn sao cho ông là người đầu tiên của tiểu đoàn đặt chân xuống vùng đất giết chóc này và nhất quyết phải là người sau cùng rời đi.” Moore quan trọng hóa tình hình sáng sớm ngày tiểu đoàn triệt thoái, ngày 16 tháng 11 với lệnh thực hiện một cuộc hỏa thám Mad Minute (Moore, trang 223):
Thật ra thì tình hình về phía địch quân, các toán quân cuả Tiểu Đoàn 7 và 9 thuộc Trung Đoàn 66 giáp mặt với các toán quân không kỵ Mỹ tại bãi đáp X-Ray vào lúc đó đang lâm vào trạng thái bị chấn động mạnh và xuống tinh thần gây nên bởi các đợt bom trải thảm kinh hồn của B-52 trút xuống gần cạnh từ 1600 giờ ngày 15 tháng 11 (Tướng Nguyễn Hữu An, Hồi Ức):
Ngày hôm đó, 15 tháng 11, bom trải thảm chủ yếu nhắm vào các vị trí của Trung Đoàn 32 nằm tại khoảng cách chừng 12 cây số tây bắc bãi đáp X-Ray (Pleiku campaign, trang 88):
Kết quả của vụ xài phí đạn dược bắn phá trong hai phút của các súng cá nhân và súng máy chỉ gây cho hai tay súng bắn tỉa đeo lủng lẳng trên cây bị trúng đạn chết (Moore, trang 224). Tướng Knowles nhận định rằng hành động "mad minute" chỉ là biện pháp thận trọng của một số lính tới ngày mãn hạn quân dịch cuẩn bị hồi hương ngày hôm đó và không muốn thiệt mạng đêm cuối cùng" (Knowles):
So với tác động chính thực hiện bởi cuộc hành quân oanh tạc B-52, tác động phụ nhẹ ký rất nhiều về mặt thời gian (2 ngày – 14-15 tháng 11 đọ với 5 ngày – 15-19 tháng 11), không gian (bãi đáp X-Ray đọ với toàn vùng Chuprong-Iadrang), quân số can dự (Tiểu Đoàn 1/7, 2/7 và 2/5 Không Kỵ đọ với Phi Đoàn B-52 đóng tại Guam), lực lượng địch quân tham chiến (hai tiểu đoàn đọ với 3 trung đoàn). Trung Tá Moore muốn tô vẽ hình ảnh của một hiệp sĩ hùng dũng tiên phong xua quân vào phòng tuyến địch quân rồi vung kiếm phá vỡ thoát khỏi vòng vây xiết chặt của địch quân: ông là người đầu tiên của tiểu đoàn xung phong xuống bãi đáp X-Ray và là người sau chót của tiểu đoàn rời khỏi bãi đáp. Kỳ thật thì là một màn xuất nhập thong dong vào một công viên, không có gì xảy ra và không một tiếng súng từ phía địch quân. Trung Tá Moore đặt chân xuống bãi đáp lúc 10 giờ 48 sáng; cuộc đụng độ đầu tiên hỏa lực ở mức độ trung bình giữa toán tiền phương của Đại Đội B với địch quân trên lộ trình tuần tiễu ra khỏi phòng tuyến chỉ xảy ra vào lúc 12 giờ 45 trưa. Cuộc triệt thoái bằng trực thăng của Tiểu Đoàn 1/7 được thực hiện êm thắm dưới sự bao che của hai Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 Không Kỵ. Huy Chương Tuyên Dương Anh Dũng Thật là lạ, một trận chiến lịch sử theo như Trung Tá Moore mô tả trong cuốn We Were Soldiers Once ... and Young lại không khai sinh nhiều gương anh dũng được chính thức tưởng thưởn với huy chương: huy chương Distinguished Service Cross cho Colonel Hal Moore ngày 1 tháng 6 năm 1966; huy chương Medal of Honor cho Second Lieutenant Walter J. Marm, Đại Đội A, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ ngày ngày 15 tháng 2 năm 1967; huy chương Bronze Star with Valor cho Specialist 4 Gaelen Bungum, Đại Đội B, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ (năm tháng tưởng thưởng không rõ); huy chương Silver Star cho Second Lieutenant John Lance Geoghegan, Đại Đội C, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ (năm tháng truy tặng không rõ); huy chương Distinguished Service Cross cho Staff Sergeant Clyde E. Savage, trưởng toán tiểu đội 3 và cho Specialist 5 Charles R. Lose, y tá trung đội, cả hai thuộc Đại Đội B, Tiểu Đoàn 1/7Không Kỵ; huy chương Silver Star cho Major Bruce Crandall và Captain Edward Freeman, cả hai phi công thuộc Đại Đội A, Tiểu Đoàn 229 Assault Helicopter (năm tháng tưởng thưởng không rõ). Năm 1992, Moore và Galloway lưu ý tới tình trạng sơ suất này trong sách We Were Soldiers Once ... and Young (New York: Random House, 1992, trang 374):
Lời than phiền này gây chú ý cho Quốc Hội và năm 1966 một đạo luật được thông qua miễn trừ thời hạn ba năm trìn nạp kiến nghị xin tưởng thưởng huy chương, kể cả huy chương Medal of Honor, liên quan đến các cuộc hành quân tại thung lũng Ia Drang, gần Pleiku, Nam Việt Nam, từ ngày 23 tháng 10 năm 1965, đến ngày 26 tháng 11 năm 1965 (Barbara Salazar Torreon, Medal of Honor: History and Issues, August 18, 2015). Đạo luật này cho phép bất cứ thành viên nào của Quốc Hội đều có thể đệ trình kiến nghị tưởng thưởng huy chương lên hội đồng quân sự cứu xét tưởng thưởng huy chương. Chắc hẳn là tất cả mọi cựu chiến binh có tham dự trận Ia Drang đã được kêu gọi cộng tác vào công cuộc tìm kiếm nhằm chỉnh sửa sơ suất này. Tuy vậy, kết quả rất là yếu kém: huy chương Bronze Star with Valor cho Specialist 4 Bill Beck and Specialist 4 Russell E. Adams, Đại Đội A, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ năm 1966; huy chương Bronze Star with Valor cho Joe Galloway, phóng viên chiến trường ngày 1 tháng 5 năm 1998; huy chương nâng cấp từ Silver Star lên thành Medal of Honor cho Captain Edward Freeman năm 2001 và cho Major Bruce Crandall năm 2007. Tựu trung, sau hai chục năm lục lọi, chỉ đào thấy được thêm ba gương anh dũng với huy chương Bronze Star tưởng thưởng trong trận Ia Drang tại bãi đáp X-Ray, không một gương anh dũng nào tại bãi đáp Albany. Nguyển Văn Tín
Tài liệu tham khảo
|