Sau khi Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ tham dự vào Chiến Dịch Pleime, Thiếu Tướng Kinnard, Tư Lệnh, thảo bản báo cáo chiến trận mang tựa đề là Pleiku Campaign (Chiến Dịch Pleiku ). Tên nguyên thủy của chiến dịch này là Long Reach Operation, diễn tả nỗ lực "với tay" truy kích Bắc Quân từ trại Pleime đến hậu cứ Chu Prong. Việc thay đổi danh xưng này đã khiến cho nhiều người lầm tưởng là chiến dịch Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ tham dự vào hoàn toàn khác biệt Chiến Dịch Pleime. Không hiểu Tướng Kinnard có chủ tâm gây nên tác dụng tiêu cực này không, nhưng hậu quả là các sử gia quân sự và các tác giả Mỹ khi viết về trận Pleime đã có khuynh hướng vùi dập tên Pleime cùng vai trò chính của QLVNCH, và thay thế vào đó trận Ia Drang và vai trò chính của QLHK song song với Quân Cộng Sản Bắc Việt. Tướng Kinnard thảo xong Pleiku Campaign ngày 14 tháng 3 năm 1966 để đệ trình lên Tướng Westmoreland, US Military Assistance Command, Vietnam. Vì Sư Đoàn 1 Không Kỵ là một đơn vị được tăng phái cho Quân Đoàn II trong Chiến Dịch Pleime, nên Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tiếp nhận được một bản của tài liệu loại "mật" này. Kế đó, Đại Tá Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, đã tham khảo (số 30) bản báo cáo của Tướng Kinnard khi thảo bản báo cáo Chiến Dịch Pleime (Why Pleime ) với chữ ký của Tướng Vĩnh Lộc, đệ trình lên Trung Tâm Hành Quân/Bộ Tổng Tham Mưu. Trong bản báo cáo này, Đại Tá Hiếu đã bổ túc và sửa sai, một cách âm thầm và gián tiếp, đôi điều thiếu sót và lệch lạc tìm thấy trong Pleiku Campaign. Một bản thảo của bản Why Pleime đã được gửi đến cho Tướng Kinnard và ông đã hồi đáp cám ơn Tướng Vĩnh Lộc đã tặng cho ông một bản:
1. Nhất Điểm Lưỡng Diện Khi Việt Cộng bắt đầu tấn công trại Pleime tối ngày 19 tháng 10 năm 1965, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đang tăng phái cho cuộc hành quân Thần Phong 6 ở Bồng Sơn tại vùng ven biển. Cuộc hành quân này là một hành động phản ứng của Quân Đoàn II nhằm chống lại một cuộc tấn công của Việt Cộng tại Quận Hoài Ân khởi sự cùng một lúc với cuộc tấn công vào trại Pleime. Tướng Kinnard đồng quan điểm với Tư Lệnh I Field Force Vietnam và Cố Vấn Trưởng Mỹ Quân Đoàn II mặt trận Hoài Ân chứ không phải Pleime là nỗ lực chính của Việt Cộng (Pleiku, trang 10):
Nhưng Đại Tá Hiếu đã chẩn đoán ngay là Việt Cộng dùng chiến thuật "nhất điểm lưỡng diện" (Pleime, cuối chương II), với điểm là Pleiku, và hai diện là Hoài Ân - phụ - và Pleime - chính. Do đó, Đại Tá Hiếu khuyến cáo với Tướng Vĩnh Lộc, đang trực tiếp chỉ huy cuộc hành quân Thần Phong 6, cần trở lại Pleiku gấp (Pleime, đầu chương III). Đại Tá Hiếu còn chẩn đoán thêm Việt Cộng dùng chiến thuật "công đồn đả viện" tại mặt trận Pleime dựa vào những sự kiện sau đây (Pleime, chương IV): 1. Việt Cộng dùng một trung đoàn khi tấn công Pleime nhưng lại không đánh dứt điểm mà chỉ vây hãm cầm chân. 2. Việt Cộng đặt súng phòng không quanh trại Pleime để cấm cản tiếp cứu trại bằng trực thăng vận và buộc Quân Đoàn II phải xuất phái Lực Lượng Đặc Nhiệm Tiếp Cứu bằng đường bộ. 3. Trung Đoàn 33 BV vây lấn trại mới xâm nhập NVN được một tháng, là một lực lượng yếu kém so với Trung Đoàn 32 BV lập ổ phục kích, là một lực lượng đã có mặt và đã sung trận nhiều lần tại Cao Nguyên từ đầu năm 1965. 2. Trung Tá Luật Án Binh Bất Động LLĐNTK Khi nhận xét về thái độ của Trung Tá Luật coi bộ có vẻ rụt rè không dám mạnh dạn cho Lực Lượng Đặc Nhiệm Thiết Kỵ tiến bước trong bốn ngày, từ 20 đến 24 tháng 10, Tướng Kinnard cho là Trung Tá Luật chỉ dạn dĩ lên được là nhờ vào sự bảo đảm yểm trợ pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ (Pleiku, trang 21):
Tại phần tổng kết của bản báo cáo nơi trang 123, Tướng Kinnard còn nhắc nhở lại ý kiến đó:
Đại Tá Hiếu chỉnh Tướng Kinnard và nói mọi động thái của Trung Tá Luật từ khi xuất trại Pleiku đến khi tới trại Pleime, nhất cử nhất động là làm theo lệnh trực tiếp của Đại Tá Hiếu. Đại Tá Hiếu ra lệnh rành mạch cho Đại Tá Luật là di chuyển đoàn quân tiếp cứu tới Phù Mỹ ngày 21 tháng 11 rồi dừng chân lại tại đó và chỉ hành quân tuần tiễu luẩn quẩn trong đường kính 10 cây số vì hai lý do: một là tranh thủ thời gian để gom góp đủ quân số tăng cường cho LLĐNTK; và hai là để đối ứng với chiến thuật phục kích di động mà Việt Cộng đem ra xử dụng lần đầu tiên trong dịp này - thay vì phục kích tĩnh động như những cuộc tấn công trước đó. Chỉ khi hội đủ hai yếu tố này, Trung Tá Luật mới nhận được lệnh tiến quân (Pleime, chương IV).
3. Sáng Kiến Truy Kích Địch Sau Khi Giải Tỏa Trại Pleime Khi đề cập tới trường hợp Sư Đoàn 1 Không Kỵ được trao sứ mạng truy kích địch quân sau khi giải tỏa trại Pleime, Tướng Kinnard phát biểu như sau (Pleiku, trang 31):
Và đồng thời Tướng Kinnard cũng trích dẫn điện tín nhận ngày 31 tháng 10 xác nhận khẩu lệnh chính thức của Tư Lệnh Field Force Vietnam (Pleiku, trang 15):
Trong phần 10. Khái Niệm Hành Quân (Pleiku, trang 16) và phần 11. Thi Hành (Pleiku, trang 17), không thấy Tướng Kinnard nói tới sự kiện sáng kiến truy đuổi địch phát xuất từ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, đồng thời sự kiện Sư Đoàn 1 Không Kỵ tiếp tục đóng vai trò một lực lượng tăng phái cho Quân Đoàn II. Đại Tá Hiếu đã bổ túc phần thiếu sót này khi nhắc tới buổi họp quan trọng xảy ra ngày 26 tháng 10 tại Trung Tâm Hành Quân Chiến Thuật/Quân Đoàn II với sự hiện diện của các cố vấn Mỹ và các chỉ huy trưởng của các đơn vị. Trong buổi họp này, Đại Tá Hiếu đã đề nghị truy đuổi địch quân đến tận mật khu Chu Prong với khả năng trực thăng vận của Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Trong giai đoạn này, Sư Đoàn 1 Không Kỵ đóng vai trò nỗ lực chính với hành quân Long Reach và Lữ Đoàn Dù VN giữ vai trò lực lượng trừ bị (Pleime, chương V). Đại Tá Hiếu cũng hoạch địch rõ ràng khái niệm và phương thức hành quân phối hợp giữa Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II và Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Không Kỵ (Pleime, chương VIII).
Các cố vấn Mỹ thuộc Quân Đoàn II chuyển đạt đến giới quân sự cao cấp Mỹ sáng kiến hành quân truy đuổi địch và được sự hưởng ứng và chấp thuận của các tướng lãnh Mỹ của I Field Force Vietnam và COMUSMACV. Sau chiến dịch Pleime, Tướng Westmoreland đã nhận định là khái niệm hành quân phối hợp của Quân Đoàn II là một khái niệm vô tiền khoáng hậu trong chiến trường cận đại (Pleime, lời tựa):
4. Vai Trò Eagle Flights DSCĐ Tướng Kinnard có ghi nhận sự hỗ trợ của các toán Eagle Flights DSCĐ mà Quân Đoàn II cắt đặt cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ dùng về mặt trinh sát. Các toán Eagles Flights được tăng phái đặc biệt cho Thiết Kỵ 1/9 Không Kỵ từ ngày 1 tháng 11 (Pleiku, trang 46) đến ngày 5 tháng 11 (Pleiku, trang 58). Tuy nhiên, Tướng Kinnard có vẻ coi thường các toán trinh sát người thượng này, khi ông lần đầu tiên làm quen với họ ngày 25 tháng 10, trong giai đoạn giải cứu trại Pleime (Pleiku, trang 24):
Về phía Đại Tá Hiếu, coi bộ các toán Eagle Flight là niềm hãnh diện của Quân Đoàn II (Pleime, chương V). Các toán này đóng vai trò các đội "cứu hỏa" nhảy xuống dập tắt các mòi lửa mỗi khi quân du kích Việt Cộng nhúm lên tại các tiền đồn DSCĐ hẻo lánh thuộc Quân Đoàn II.
5. Vai Trò Trinh Sát của các Toán Biệt Cách Dù Ngoài vai trò hỗ trợ của các toán Eagle Flight Thượng, Quân Đoàn II còn cung cấp cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ các toán trinh sát Biệt Cách Dù trên các chuyến bay trực thăng lùng kiếm địch. Tướng Kinnard không hề đề cập tới điểm này. Đại Tá Hiếu nhắc nhở gián tiếp đến hoạt động của các toán Biệt Cách Dù với việc đính kèm tài liệu tịch thâu được của Việt Cộng liên quan đến sinh hoạt của Sư Đoàn 1 Không Kỵ tại Pleime và Ia Drang (Pleime, tài liệu B). Xin trích dẫn:
6. Biến Cố Ngày 9/11/1965 Ngày 10 tháng 11 năm 1965 (Pleiku, trang 73) , Tướng Kinnard ghi vào bản báo cáo là bắt đầu từ ngày 9 tháng 11 và ngày 10 tháng 11 Lữ Đoàn 3 KK thay thế cho Lữ Đoàn 1 KK. "Một quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc quân" là quyết định gì thì Tướng Kinnard không nói rõ. Nhưng trước khi tìm hiểu về quyết định này, chúng ta hãy bàn tới sự chuyển hướng của các cuộc hành quân "từ tây sang đông". Ngày 8 tháng 11, Đại Tá Hiếu mớm cho Tướng Kinnard hành động chuyển hướng này qua I Field Force Vietnam (Pleiku, trang 67):
Đó là thế nghi binh để làm cho Việt Cộng tưởng lầm là Lữ Đoàn 1 KK đã đánh mất tung tích khiến họ đâm ra chểnh mảng để rồi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II sẽ lấy một quyết định chiến thuật bất ngờ giáng lên đầu địch (Pleime, chương V):
7. Khái Niệm Tấn Công Tại Bãi Đáp X-Ray Ngày 14/11/1965 Và đây là "quyết định gần sắp tới từ Bộ Tư Lệnh sư đoàn Bắc quân" theo tin tình báo Đại Tá có được: tấn công trại Pleime lần thứ hai. Đại Tá Hiếu liền điều nghiên kế hoạch tấn công trước địch tại bãi đáp X-Ray và khái niệm hành quân này được các đơn vị của Sư Đoàn 1 Không Kỵ thi hành. Điểm thứ nhất, Đại Tá Hiếu đề nghị ngày N được ấn định là ngày 14/11/1945, hai ngày trước khi Việt Cộng dự tính tấn công trại Pleime lần thứ hai, vì vào lúc đó các đơn vị Việt Cộng chưa được tái trang bị về mặt súng phòng không và bịch kích pháo mà địch đã mất mát sau cuộc tấn công trại Pleime - tiểu đoàn bích kích pháo 120 ly và tiểu đoàn súng phòng không hai nòng 14.5 ly chưa tới chiến trường. (Pleime, chương V):
Tướng Kinnard có cảm nhận được mưu trí của Đại Tá Hiếu (Pleiku, trang 88) khi ông nhận xét:
Điểm thứ hai, Đại Tá Hiếu cho đổ bộ quân của Lữ Đoàn 3 Không Kỵ tại vùng phía nam của nơi ba trung đoàn Bắc Quân tập trung, nơi chân rặng núi Chu Prong, chứ không tấn sâu hơn lên phía bắc, không phải để phục kích địch quân tại hậu cứ, mà làm nút chận không cho quân lính của ba trung đoàn địch tràn xuống phía nam, để rồi triệt hạ họ với bom B-52:
Tướng Kinnard cũng nói tới việc dùng đến bom B-52 trong bản báo cáo (Pleiku, trang 88):
Như vậy, nỗ lực chính trong cuộc tấn công vào hậu cần rặng núi Chu Prong từ ngày 14 đến 17 tháng 11 năm 1965 không phải là Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ của Đại Tá Hal Moore tại bãi đáp X-Ray , mà là các cuộc oanh tạc bom trải thảm của B-52 nhắm vào toàn bộ ba trung đoàn Bắc Quân, đặc biệt Trung Đoàn 32 và 33 trong hai ngày 15 và 16 tháng 11, và đặc biệt Trung Đoàn 66 ngày 17 tháng 11 ngay tại bãi đáp X-Ray. B-52 đã giết hại khoảng 2.000 chiến binh Bắc Quân. 8. Biến Cố Ngày 18 tháng 11 năm 1965 Ngày 18 tháng 11 năm 1965, Tướng Kinnard tiết lộ là một căn cứ hỏa lực pháo binh mới được thiết lập tại bãi đáp Crooks, nhưng lại không nêu rõ lý do (Pleiku, trang 96):
Đại Tá Hiếu nói rõ hơn là vào ngày 17 tháng 11 năm 1965 (Pleime, chương VI):
Chiều ngày 17 tháng 11 năm 1965, Đại Tá Hiếu đã thu xếp nhờ
Đồng thời, Đại Tá Hiếu đã yêu cầu Sư Đoàn 1 Không Kỵ đặt một pháo đội mới tại địa điểm (YA875125) để chuẩn bị kịp thời yểm trợ cho Lữ Đoàn Dù VN trước khi cuộc hành quân Thần Phong 7 khai diễn. Trong giai đoạn này của chiến dịch Pleime, Tướng Kinnard có nói là bắt đầu từ ngày 20 tháng 11, Lữ Đoàn 2 KK thay thế cho Lữ Đoàn 3 KK và tiếp tục lùng kiếm địch quân và Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn được đặt tại trại Đức Cơ (Pleiku, trang 102):
nhưng lại làm lơ vai trò tăng phái cho Lữ Đoàn Dù VN bằng cách hành quân trở lại từ đông sang tây, như Đại Tá Hiếu chỉ cho thấy trong đoạn vừa mới trích dẫn, để thi hành kế của Quân Đoàn II chận địch xuống phía nam và hiệp lực cùng Lữ Đoàn Dù dồn hai tiểu đoàn địch vào hành lang mà Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II tiên liệu địch sẽ dùng để tẩu thoát về hậu cứ bên Căm Bốt. 9. Công Trạng Của Sư Đoàn 1 Không Kỵ trong Chiến Dịch Pleime Trong phần kết của bản báo cáo, Tướng Kinnard đã đặt một câu hỏi then chốt (Pleiku, trang 123):
Và câu trả lời đương nhiên của Tướng Kinnard là không. Ông nêu ra những lý lẽ sau đây: một, Quân Đoàn II không có đủ quân để thành lập một đoàn quân tiếp cứu đủ mạnh để thắng vượt qua ổ phục kích của Trung Đoàn 32 BV gồm 2.000 binh sĩ; hai, Trung Tá Luật e ngại không cho dám cho đoàn quân tiếp cứu tiến bước cho đến khi bị Tướng Kinnard đốc thúc và bảo đảm pháo yểm; ba, đoàn quân tiếp cứu, sau khi giải tỏa được trại Pleime, đã tránh khỏi bị địch quân xâu xé khi thực hiện hành quân càn quét quanh trại, nhờ vào sự yểm trợ pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ; bốn, Quân Đoàn II không có khả năng truy kích địch đến tận mật khu Chu Prong; và năm, ngay cả khi đến lượt Lữ Đoàn Dù VN tham chiến thay các đơn vị Lữ Đoàn 3 KK, lữ đoàn trưởng Dù VN cũng phải nhìn nhận là pháo binh của Sư Đoàn 1 Không Kỵ giết hại địch quân nhiều hơn là các đơn vị bộ chiến Dù. Các điểm Tướng Kinnard nêu lên đều đúng cả. Xét riêng về tổn thất địch trong chiến dịch Pleime, trong tổng số khoảng 6.000 binh sĩ VC bị loại khỏi vòng chiến, công trạng của ba lữ đoàn không kỵ là 3561 VC chết và 1178 VC bị thương, của B-52 là khoảng 2.000 VC chết, phía các đơn vị QLVNCH là khoảng 450 VC chết (200 quanh Pleime trong hành quân Dân Thắng 21, và 250 tại Ia Drang trong hành quân Thần Phong 7). Tuy nhiên, Tướng Kinnard quên là tất cả những chiến thắng Sư Đoàn 1 Không Kỵ thực hiện được trong chiến dịch Pleime là nhờ vào tài suy tính của bộ óc tại Ban Tham Mưu Quân Đoàn II: một, Đại Tá Hiếu đã đoán được Việt Cộng lần này dùng thế phục kích di động, nếu không pháo binh của SĐ1KK sẽ bắn vào khoảng chống không; hai, Đại Tá Hiếu đã cung cấp các thông tin tình báo thu thập được từ việc khảo cung các tù binh và hàng binh Việt Cộng, và từ các đội toán Biệt Cách Dù len lỏi trong lòng địch, liên quan đến các vị trí của ba trung đoàn Bắc Quân tập trung tại mật khu Chu Prong; ba, Đại Tá Hiếu đã bày thế nghi binh chuyển hướng hành quân từ đông-tây sang tây-đông ngày 9/11 để có thể tấn công địch cách bất ngờ; bốn, Đại Tá Hiếu đã bày cho Lữ Đoàn 3 KK tấn công vào Chu Prong ngày 14/11 để tránh thiệt hại tối đa cho trực thăng và binh sĩ Mỹ khi Việt Cộng không có trong tay các súng phòng không và bích kích pháo hạng nặng; năm, Đại Tá Hiếu đã đề ra khái niệm dùng vũ khí B-52 chiến lược làm vũ khí chiến thuật lần đầu tiên trên chiến trường Việt Nam; sáu, Đại Tá Hiếu đã sắp xếp đặt để pháo binh của SĐ1KK tại Crooks trong tầm bắn vào vùng Lữ Đoàn Dù sẽ hành quân. Nói tóm lại, Đại Tá Hiếu đã khéo biết xử dụng tới (Pleime, chương V):
Nếu không có tài điều khiển của Đại Tá Hiếu, mãnh lực vô song địch của SĐ1KK sẽ chỉ là một quả đấm thoi sơn tung vào khoảng chân không, không tài nào đánh trúng một địch quân tàng hình tài giỏi. Tướng Westmoreland đã có một thẩm định trung thực hơn liên quan đến vai trò của Quân Đoàn II trong chiến dịch Pleime khi ông viết (Pleime, lời tựa):
Nguyễn Văn Tín
Tài liệu tham khảo
|