Hành Quân Bãi Đáp X-Ray

Bối Cảnh

Vào khoảng ngày 11 tháng 11 năm 1965, ba Trung Đoàn Việt Cộng đã bị Lữ Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ dụ tụ tập lại vào các vùng tập trung thuộc hệ thống Chuprong-Iadrang và trở thành những mục tiêu cho các cuộc oanh tạc B-52 đánh phá: Trung Đoàn 32 tại YA 820072, Trung Đoàn 33 tại YA 940011 và trung tâm khối Trung Đoàn 66 tại quanh YA 9104. Thời điểm thả bom trải thảm được ấn định vào lúc 1600 giờ ngày 15 tháng 11. Mặt trận B3 ấn định ngày-N tấn công trại Pleime vào ngày 16 tháng 11.

Các toán quân Việt Cộng không có sự yểm trợ của các súng phòng không và bích kích pháo. Một số đã bị mất tại Pleime, số còn lại còn rong rủi trên đường mòn Hồ Chí Minh.(1)

Ban 2/Quân Đoàn II cung cấp cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ Tiền Phương các tin tình báo tức thời về tình hình quân sự chính xác về Mặt Trận B3: các ý định, hoạch định, điều quân.(2)

Khái Niệm Hành Quân

Vì các đơn vị Việt Cộng sẽ xuất quân đi tấn công vào ngày 14, cần thiết tạo một thế nghi binh để khuyến dụ Mặt Trận B3 đình chỉ đi tấn công để cho phép các phóng pháo cơ B-52 có đủ thì giờ ra tay hành động.

Thế đánh lạc hướng chú ý sẽ được thực hiện bằng cách đổ bộ một tiểu đoàn không kỵ tại chân rặng núi Chu Prong, gần kề vị trí của Trung Đoàn 66 là lực lượng chính trong cuộc tấn công trại Pleime lần thứ hai này.

Tiểu đoàn này sẽ được tăng phái với số lượng đơn vị thích ứng đối với các lực lượng phản công của địch.

Ngay sau khi dụ kế đạt được kết quả, tiểu đoàn đổ bộ sẽ được rút đi.

Thực Hiện

Vào ngày 12 tháng 11, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ được lệnh chuẩn bị tấn kích trực thăng vận vào Bãi Đáp X-Ray. (3)

Vào ngày 13 tháng 11, Đại Tá Brown ra lệnh cho Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ sẵn sàng đổ bộ vào ngày hôm sau. (4)

Ngày 14 tháng 11

- Lúc 1048G, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ thông báo cuộc đổ quân bằng một trận tiền pháo kéo dài 20 phút và ầm ĩ tiến vào bãi với một phi đoàn gồm 16 trực thăng. (5) Đại Đội B là đơn vị tiên phong. Cuộc đổ quân được cố ý thực hiện cách chậm rải để khiến địch quân hoảng sợ bỏ chạy.

- Khoảng 1200G, Mặt Trận B3 lấy quyết định phản công với hai Tiểu Đoàn 7 và 9. (6) Tướng Knowles truyền lệnh cho Tiểu Đoàn 2/7 sẵn sàng tăng phái.(7)

- Lúc 1210G, các đơn vị của Đại Đội A bổ độ vào bãi đáp.

- Khoảng 1245G, các đơn vị của Đại Đội C bổ độ vào bãi đáp.

- Khoảng 1300G, các đơn vị của Đại Đội D bổ độ vào bãi đáp.

- Khoảng 1500G, các đơn vị tác chiến sót lại của tiểu đoàn đổ bộ xong vào bãi đáp. (8)

- Khoảng xế chiều, Tướng Knowles quyết định tăng phái thêm Tiểu Đoàn 2/5 Không Kỵ để chuẩn bị triệt thoái Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ ấn định vào ngày 16 tháng 11. (9)

- Lúc 1705G, Đại Đội B/Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ bắt đầu đổ bộ và xong vào khoảng 1800G.

- Khoảng tối đêm, Đại Đội A/Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ ở trong thế sẵn sàng tăng phái trong ngày hôm sau.(1)

Ngày 15 tháng 11

- Lúc 0800G, Tiểu Đoàn 2/5 Không Kỵ được lệnh lội bộ từ Bãi Đáp Victoc tiến tới Bãi Đáp X-Ray để tăng phái.

- Cũng vào khoảng 0800G, Đại Đội A/Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ được chuyển vận tới Bãi Đáp X-Ray.

- Lúc 0930G, Đại Tá Brown đáp xuống Bãi Đáp X-Ray để thông báo cho Moore biết tin sẽ triệt thoái Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ vào ngày hôm sau. (11)

- Lúc 1205G, Tiểu Đoàn 2/5 Không Kỵ tiến vào Bãi Đáp LZ X-Ray.

- Khoảng 1510G, tất cả các đơn vị hợp thành xong phòng tuyến chắt chẽ.

- Lúc 1600G, các đợt bom trải thảm đầu tiên trút xuống trung tâm khối của Trung Đoàn 32 tại quanh YA8702, khoảng 7 cây số tây Bãi Đáp X-Ray.

- Lúc 1630G, Tướng Knowles đáp xuống Bãi Đáp X-Ray để lập lại lệnh tríêt thoái Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ vào ngày hôm sau. (12)

Ngày 16 tháng 11

- Lúc 1135G, Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ được trực thăng vận rút ra khỏi Bái Đáp dưới sự bảo vệ của hai Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 Không Kỵ. (13)

- Lúc 1245G, lệnh được truyền ra cho Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 Không Kỵ chuẩn bị triệt thoái khỏi Bãi Đáp X-Ray để B-52 trút bom xuống ngay bãi đáp. (14)

Ngày 17tháng 11

- Khoảng 0900G, Tiểu Đoàn 2/7 và 2/5 không Kỵ lội bộ rút ra khỏi Bãi Đáp X-Ray.(15)

- Lúc 1200G, B-52 trút bom xuống Bãi Đáp X-Ray, hai Tiểu Đoàn 7 và 9 bị đánh rập bất ngờ. (16)

Kết Luận

Tựu trung, tiểu Đoàn 1/7 AC Không Kỵ xuất hiện tại chân rặng núi Chu Prong, vãy tay trước mặt địch quân, gây chú ý rồi biến dạng, để dọn đường cho B-52 bật ngờ trải thảm bom lên đầu các đơn vị địch quân.


- (1) Địch đã mất gần hết các vũ khí cộng đồng trong đợt đầu. (Why Pleime, chương V); Hiển nhiên là nỗ lực của Bắc Quân không được hỗ trợ bởi các tiểu đoàn bích kích pháo và súng phòng không không tới kịp vào vùng chiến trận và còn rong ruổi trên đường mòn xâm nhập . (Pleiku campaign,trang 88)

- (2) Cho nên lần này ý chí quyết không để cho địch chạy thoát, cộng với sự nắm vững tình hình địch đã làm cho trận chiến phát triển đến một mức độ và quy mô tối đa đồng thời đem lại những chiến công lớn nhất từ trước đến nay của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và Đồng Minh. (Pleime, Trận Chiến Lịch Sử trang 94)

- (3) Chiều này 12 tháng 11, Tướng Knowle từ Pleiku bay xuống phía nam trên chiếc trực thăng chỉ huy tìm gặp Đại Tá Tim Brown, đang ở cùng tôi tại chiến trường . […] Ông quanh lại phía Brown: “Tim, ông nghĩ sao đi về phía tây – nhảy sâu vào thung lũn Ia Drang?” […} Knowles làm dấu hiệu ra lệnh cho chúng tôi thi hành. (Hal Moore, We Were Soldiers Once, and Young, trang 17)

- (4) Lúv 5 giờ chiều ngày 13/11, Brown bay xuống gặp Moore tại ban chỉ huy Đại Đội A, nam Pleime và bảo Moore thực hiện một cuộc tấn kích trực thăng vận vào vùng Lime [vùng tại chân rặng núi Chu Prong] sáng ngày hôm sau. (Coleman, J.D., "Pleiku, the Dawn of Helicopter Warfare in Vietnam", trang 199)

- (5) Giờ chính xác đổ bộ là 1048 giờ. (1/7 AC after action report)

- (6) Ở sở chỉ huy tiền phương chúng tôi lúc này nắm được t́nh h́nh chắc hơn. Dưới trung đoàn 66 cho biết: tiểu đoàn 9 đă liên lạc được với tiểu đoàn 7. Như vậy tương quan lực lượng trong khu vực nhỏ này, mỗi bên có hai tiểu đoàn, nếu tính số lượng quân Mỹ trội hơn, chưa kể hai đại đội pháo và không quân chi viện. (Tướng Nguyễn Hữu An, Hồi Ức)

- (7) Tướng Knowles cầm điện thoại lên và gọi Tướng Kinnard đang ở phía sau tại An Khê, xin thêm một tiểu đoàn, thêm pháo binh, và cả trực thăng vận tải quân và chuyên chở vật liệu hạng trung.(Coleman "Pleiku, the Dawn of Helicopter Warfare in Vietnam, trang 219)

- (8) Vào thời điểm này, khoảng 1500 giờ, tôi thấy cần phải tiếp tục đổ bộ số đơn vị tác chiến còn lại của tiểu đoàn, gồm có trung đội trinh sát, 3 chuyến UH1D chuyển vận lính của Đại Đội C, và sĩ quan thừa hành và Trượng Sĩ của Đại Đội D. (1/7 AC after action report)

- (9) A. Chiều ngày 14 tháng 11, Lữ Đoàn trưởng đã di chuyển Tiểu Đoàn 2/5 tới Bãi Đáp Victor. Khoảng 0800 giờ [ngày 15 tháng 11] tiểu đoàn lội bộ tiến tới Bãi Đáp X-RAY. (1/7 AC after action report)

- (10) Ông đã thông báo cho Đại Đội A/Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ sẵn sàng ngày hôm trước và tập trung đại đội cùng trực thăng sẳn sàng tiến quân. (1/7 AC after action report)

- (11) Khoảng 9:30 giờ, trước khi Trung Tá Tully tới nơi, Đại Tá Tim Brown đáp trực thăng xuống tham viếng mặt trận. Plumley nhớ lại: “Trung Tá Moore nghiêm chào Brown và nói, ‘tôi nói với đại tá là đừng có đến đây. Không an toàn! Brown nâng cổ áo lên và giơ con ó đại bàng lon đại tá vào mặt Moore và nói, ‘Xin lỗi ông nhé!” Dillon và tôi tường trình tình hình. Brown hỏi ông có nên ở lại X-Ray để thiết lập một bộ chỉ huy lữ đoàn nhẹ và điều động chiến trường không. Chúng tôi đưa ý kíến chống lại ý định đó. Tôi biết rõ vùng này, và Bob Tully và tôi rất ăn ý với nhau. Brown đồng ý. Trước khi rời đi, Đại Tá Brown nói với chúng tôi rằng chúng tôi đã thi hành nhiệm rất chu đáo nhưng giờ này tiểu đoàn sung độ của Trung Tá Tully trên đường tới nơi cùng vớ hai đại đội của Tiểu Đoàn 2/7 Không Kỵ, rất có thể là ông rút chúng tôi khỏi X-Ray vào ngày hôm sau. (Hal Moore, We Were Soldiers Once, and Young, trang 202)

- (12) Khoảng độ nửa giờ sau khi chiến đoàn đặc nhiệm của Trung Tá Tully trở lui về X-Ray [4:30 giờ chiều] Chuẩn Tướng Richard Knowles gọi điện thoại xin phép đáp xuống bãi đáp. […]Trước khi rời đi, Tướng Knowles nói với chúng tôi là có thể ông sẽ ra lệnh cho Đại Tá Tim Brown rút tiểu đoàn của tôi và các đơn vị tăng phái ra khỏi X-Ray vào ngày hôm sau và không vận chúng tôi trở về trại Holloway để dưỡng sức và tái trang bị. (Hal Moore, We Were Soldiers Once, and Young, trang 210)

- (13) 11:35G: 1st Cav Maj Turner – (mật mã) – Kế hoạch hiện tại bốc xuất 1/7 và B/2/7 hôm nay, lui lại 2000 thước tới tuyến phòng thủ. (G3 Journal/IFFV, ngày 16/11)

- (14) 12:35G: FFV Trung Tâm Hành Quân Maj Murray gửi 3d Bde Adv 1st Cav – Về thông tín cuối cùng. Rút lui 3000 thước. (G3 Journal/IFFV, ngày 16/11)

- (15) 09:30G: 1st Cav (Capt Cook) 2/7 di chuyển đến Makin lúc 0910G 2/5 di chuyển đến Columbus lúc 0900G. > (G3 Journal/IFFV, ngày 17/11)

- (16) Các toán quân còn ở lại trong vùng X-Ray thình lình chợt vỡ lẽ tại sao Không Kỵ rời bỏ đi khỏi nơi này. Một cuộc oanh tạc B-52 đánh phủ lên đầu các vị trí cũ. (Pleiku campaign, trang 94)

Nguyễn Văn Tín
Ngày 03 tháng 02 năm 2016

Tài liệu tham khảo

- Chính

- Sách báo

* Pleiku, the Dawn of Helicopter Warfare in Vietnam, J.D. Coleman, St. Martin's Press, New York, 1988.

* We Were Soldiers Once… and Young, General Harold G. Moore and Joseph L. Galloway, Random House, New York, 1992.

* "First Strike at River Drang", Military History, Oct 1984, pp 44-52, Per. Interview with H.W.O Kinnard, 1st Cavalry Division Commanding General, Cochran, Alexander S.

* The Siege of Pleime, Project CHECO Report, 24 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

* Silver Bayonet, Project CHECO Report, 26 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

- Việt Cộng

generalhieu.com