Trận Chiến Plei Me

Giới Thiệu

Đă hơn 39 năm qua, Quân Sử của VNCH cũng như của Hoa Kỳ đều nói, viết và đưa lên phim ảnh Hollywood về trận đánh lịch sử ở thung lũng Ia-Drang, trên Cao nguyên Trung phần vào tháng 11 năm 1965. Nhưng chưa một ai nói và viết chi tiết chiến thuật công đồn đả viện của quân Cộng Sản Bắc Việt trong trận phục kích đoàn quân tiếp viện của ta, gồm Trung Đoàn 3 Thiết Giáp (sau đổi tên là Thiết Đoàn 8 Kỵ Binh) và Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân (BĐQ) làm mũi nhọn đi giải vây cho tiền đồn Plei Me đang bị vây hăm, cách thành phố Plei Ku khoảng 40 km về hướng Nam.

Khi đó, quân ta đang rơi vào một cái bẫy xập to lớn hơn, do hơn một Trung Đoàn (+) quân CSBV đang giăng ra để chờ đón con mồi từ từ bước vào vùng tử địa trên Tỉnh Lộ 6C, nối liền từ Plei Ku đến Plei Me.

Bài này được viết ra do kinh nghiệm bản thân của tác giả và nhiều lần được nghe chính các quân nhân binh chủng BĐQ, thuộc Tiểu Đoàn 21 c̣n sống và kể lại. Lúc đó, họ là những Trung Đội Trưởng của các Đại Đội thuộc Tiểu Đoàn 21, và là những sĩ quan trẻ, mới tối nghiệp từ Trường Vơ bị Quốc Gia Đà Lạt, Khóa 19 Nguyễn Trăi, và họ cũng là những người bạn thân thiết với tác giả, và cũng đă nhiều lần vào sanh ra tử tại các chiến trường nổi tiếng của vùng 2 Chiến Thuật, tại một thị trấn thơ mộng được gọi là “Em Plei Ku má đỏ môi hồng” trong bài thơ nổi tiếng của Vũ Hữu Định đă được Phạm Duy phổ nhạc.

Bố Trí Lực Lượng

Lực Lượng Địch

Trung Đoàn 32 CSBV với 3 Tiểu Đoàn 344, 635 và 966 do Thiếu Tá Mă Văn Minh làm Thủ Trưởng Trung Đoàn (Trung Đoàn Trưởng).

Trung Đoàn 33 CSBV của Thượng Tá Nguyễn Hữu An chỉ huy tổng quát. Một Tiểu Đoàn súng cối 60, 82 và 120 mm. Một tiểu đoàn súng pḥng không 12.7 mm. Một Tiểu Đoàn Địa Phương H.15.

Và Trung Đoàn 66 CSBV, với 3 Tiểu Đoàn 7, 8 và 9 do Trung Tá La Ngọc Châu đang xâm nhập trên đường ṃn HCM.

Lực Lượng Bạn Cánh A:

Trung Đoàn 3 Thiết Giáp (-) gồm 12 chiến xa M41 và 8 thiết vận xa M113.

Đại Đội 1 và 2 thuộc Tiểu Đoàn 21 BĐQ vừa đi bộ mở đường thám sát, vừa tùng thiết (ngồi trên pháo tháp chiến xa M41 và trên nóc thiết vận xa M113).

Lực Lượng Bạn Cánh B:

Bộ Chỉ Huy TĐ12BĐQ và Đại Đội 4 BĐQ đi theo sau cánh A khoảng 2 km trên trục lộ, với đoàn quân xa chở đạn dược tiếp liệu, xăng dầu và nước uống, cùng tiểu đội công binh cùng 21 chiếc thiết vận xa M113, 2 xe bọc sắt RM8 có gắn đại liên 30 ly bên hông xe và 2 khẩu pháo Howitzers 105 ly.

Lực Lượng Bạn Cánh C:

Tiểu Đoàn 1 Bộ Binh, thuộc Trung Đoàn 42 Biệt Lập tăng phái đến từ Kon Tum và Tân Cảnh do Đại Úy Mă văn Nông làm Tiểu Đoàn Trưởng đă di chuyển trên một lộ tŕnh khác, không cùng với TĐ 21 BĐQ và Thiết Giáp trên Tỉnh Lộ 6C.

Trừ bị: Tiểu Đoàn 22BĐQ do Đại Úy Phạm Văn Phúc làm Tiểu Đoàn Trưởng, nằm trừ bị tại phi trường Cù Hanh, Plei Ku, sẵn sàng tiếp ứng bằng trực thăng vận.

Diễn Tiến Trận Đánh:

Lúc 11:30 đêm 19-10-1965, một tiểu đoàn của Trung Đoàn 33 CSBV đă bao vây, tấn công, dùng đặc công, pháo kích liên tục và dữ dội vào trại LLĐB Plei Me. Trại này cách thành phố Plei Ku 40 km về phía Nam. Lực lượng đồn trú gồm 12 Cố Vấn Hoa Kỳ, một toán LLĐB/VN và khoảng 400 Dân Sự Chiến Đấu Thượng cùng với vợ con sống trong trại. Họ đă không tràn ngập và dứt điểm trại LLĐB Plei Me, mà cố ư dụ đoàn quân tiếp viện của ta tiến vào trận điạ để tiêu diệt và sau đó sẽ thanh toán trại Plei Me sau cùng.

Ngoài ra, địch đă bố trí các đại liên, pḥng không, và súng cối trên các ngọn đồi núi cao quanh trại nhằm triệt hạ không quân phe ta.

Từ Plei Ku, trước khi chuyển quân tôi thấy một máy bay khu trục Skyraider A1E của ta bị pḥng không 12.7 ly của địch bắn trúng, phi công đă nhảy dù ra được, và cánh dù màu da cam đă bay lơ lửng trên bầu trời của trại LLĐB Plei Me.

Ta đă biết chắc là địch lại áp dụng chiến thuật công đồn cổ điển, để đả viện nhưng quân ta không c̣n cách nào khác và chấp nhận cuộc chơi do phe kia lựa chọn chiến trường.

Một chiến đoàn cứu viện của QĐ2/QKII dưới quyền tư lệnh của Chuẩn Tướng Vĩnh Lộc được thành lập gồm Trung Đoàn Kỵ Binh (-) với một chi đoàn M41 thiết giáp 12 chiếc, một chi đoàn (-) thiết vận xa M113 gồm 8 chiếc dưới quyền chỉ huy tổng quát của Trung Tá Kỵ binh Nguyễn Trọng Luật. Chiến Đoàn được tăng phái Tiểu Đoàn 21 BĐQ và Tiểu Đoàn 1/42 Bộ Binh Biệt Lập, và tăng cường 2 khẩu pháo binh 105 mm di chuyển theo đoàn quân.

Đơn vị thiết giáp và Tiểu Đoàn 21 BĐQ được tập trung tại Phù Mỹ, giao điểm của QL 14 và Tỉnh Lộ 6C trong 2 ngày để gom các đơn vị trực thuộc, tiếp vận, pháo binh và chờ Tiểu Đoàn 1/42 Bộ Binh từ Dak To và Tân Cảnh tới.

Địch quân đă nghiên cứu kỹ lưỡng đọan đường này từ lâu trước khi khởi sự trận đánh. Khúc đường địch lựa chọn để mai phục đoàn quân tiếp viện của ta có địa thế bẻ ngoặt, như khủy tay là điểm chặn đầu đoàn quân tiếp viện. Nơi đây, Trung Đoàn 32 CSBV phục kích sẵn trong các hầm hố, công sự chiên đấu được ngụy trang kín đáo. Một lực lượng khác do Tiểu Đoàn 344 CSBV, thuộc Trung Đoàn 32 CSBV khoảng 400 người sẽ khóa chặt khúc đuôi của đoàn quân ta, và cùng lúc một lực lượng xung kích của địch bố trí trên các cao địa (20-30m), với hỏa lực hùng hậu của dàn súng chống chiến xa B40, súng cộng đồng SKZ57, cùng sơn pháo 75 ly và đồng loạt tiểu liên tự động AK47 từ các hầm hố ngụy trang xung phong, tràn nghập và tiêu diệt lực lượng chính của ta.

Địch với 2 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 33 và 2 tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 32 làm nỗ lực chính để đả viện. Ngoài ra thêm một tiểu đoàn thuộc Trung Đoàn 32 làm lực lượng trừ bị.

Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 21 BĐQ đi đầu do Trung Úy Ṿng Lập Dzếnh, làm Đại Đội Trưởng. Thiếu Úy Huỳnh Kim Tắc, Khóa 19 Đà Lạt, Trung Đội Trưởng Trung Đội 1/Đại Đội 1/TĐ21 BĐQ đang ngồi trên thiết giáp M41 đă nhanh nhẹn xuống xe chiến đấu, và anh đă chỉ huy toàn trung đội phản công dữ dội. Cộng vào đó hỏa lực cơ hữu của các đại liên 50 ly từ các thiết vận xa M113 và đạn chày chống biển người từ các thiết giáp M41 đẩy bật sức tấn công và tràn ngập của kẻ địch. Cùng lúc đó, Thiếu Úy Ngô Hoàng Gia, Khóa 14 Thủ Đức, Trung Đội Trưởng/Trung Đội 2/Đại Đội 1/TĐ 21 BĐQ đang di chuyển bộ trên hai bên đường cũng bị địch với quân số đông gấp bội, từ những hầm hố ngụy trang bên phải trục lộ ồ ạt tấn công, nhằm tiêu diệt gọn phe ta. Như Triệu Tử Long trong Tam Quốc Chí, Thiếu Úy Gia đă anh dũng chỉ huy Trung Đội 2 xung phong tiến lên đánh cận chiến, quyết không cho địch chiếm thế chủ động chiến trường. Đại Đội 2 BĐQ với Trung Úy Vơ Vàng khóa 17 Đà Lạt, làm Đại Đội Trưởng và tôi, Thiếu Úy Trần Quốc Cảnh, Khóa 19 Đà Lạt, Trung Đội Trưởng, tùng thiết M41 đi kế tiếp hàng dọc trên đường đất độc đạo tiến về Plei Me.

Ngay từ lúc đầu, cuộc tiến quân rất chậm v́ trung đội mở đường của Thiếu Úy Ngô Hoàng Gia phải đi bộ để lục soát hai bên đường.

Khoảng 3 giờ chiều, lực lượng tiền đạo cánh A từ trên một đồi cao đi xuống thung lũng (ḷng chảo hay h́nh dáng chiếc yên ngựa), để tiến lên một cao điểm phía trước th́ bị lực lượng chặn đầu của địch dùng vũ khí cộng đồng, tiến không được và lùi cũng không xong, mà dàn quân sang phải, trái th́ bị rừng cây ngăn trở. Địch từ những hầm hố cố định ào ạt tiến sát quân ta, nhưng bị hỏa lực của thiết giáp dùng đạn chầy, chống biển người và đại liên 50 cùng BĐQ đă chặn được kịp thời không cho địch tiến sát để tràn ngập quân ta.

Địch quân, từ địa thế đồi cao, đă tấn công dồn dập như thác đổ vào cạnh sườn trái của Đại Đội 2 BĐQ. Ngay lập tức, các chiến sĩ BĐQ đă phản công quyết liệt, không cho địch quân xung phong tiếp cận các thiết giáp và thiết vận xa. Cùng lúc đó hỏa lực của các khẩu đại liên 50 ly trên M113 và M41 đă đồng loạt khai hỏa đẩy bật các đợt tấn công liên tục của địch từ trên các đỉnh đồi và các hầm hố ngụy trang dọc con đường tiến quân. Đạn tổ ong từ pháo tháp 76 ly của thiết giáp M41 đă quật ngă hàng loạt và phá hủy những hầm hố, công sự chiến đấu kiên cố của địch. Lực lượng BĐQ và Thiết Giáp của cánh A đă bẻ găy âm mưu đả viện của Tiểu Đoàn 635/Trung Đoàn 32 CSBV.

Lực lượng cánh B đi phía sau, được chỉ huy bởi Thiếu Tá Lê Văn Tui, Trung Đoàn Phó Thiết Giáp và Đại Úy Nguyễn Văn Sách, TĐT/TĐ21 BĐQ, và Trung Úy Nguyễn Văn Huân, TĐP cùng Đại Đội 4 do Trung Úy Nguyễn Thành Banh, Khóa 16 Đà Lạt làm ĐĐT và Thiếu Úy Nguyễn Văn Chính, Xử Lư Thường Vụ ĐĐ 3 đi sau cùng. Tiểu đoàn đă chống trả thật mănh liệt, sau đó lui xuống cuối đoàn xe để bảo toàn lực lượng, bố trí pḥng thủ qua đêm tại một Ấp Chiến Lược với những hầm hố và công sự chiến đấu đă bỏ hoang gần đó phía sau nơi phục kích 1 km. Quân ta đă đẩy lui nhiều đợt tấn công dữ dội của Tiểu Đoàn 344 và 966 thuộc Trung Đoàn 32 CSBV. Trong đêm tối, nhờ máy bay Dakota C47 của Không Quân VNCH thả hỏa châu chiếu sáng liên tục trên bầu trời quanh đồn Ấp Chiến Lược nên quân ta quan sát rất rơ t́nh h́nh bạn và địch. Cho đến gần sáng, địch rút lui. Kiểm điểm cánh B bị thiệt hại khoảng 2/3 số xe cộ trong đoàn tiếp tế bị cháy và phá hủy bởi B40, SKZ57, Sơn Pháo 75 ly ngay từ những lúc khởi đầu trận đánh của cánh B.

Trong lúc giao tranh, trời c̣n sáng, tôi nh́n lại đoàn quân trên đồi cao phía sau, thấy những đám khói đen bốc cao, tiếng súng nhỏ phía sau ít nghe thấy có lẽ khoảng cách khá xa (2 km), v́ đang ở dưới thung lũng thấp, và đạn đại bác và đại liên nổ ṛn ră sát bên.

Bố Trí Pḥng Thủ

Sau đó, trời bắt đầu xập tối và tôi cảm thấy nếu cứ nằm dọc theo đường đất một hàng dọc như vậy suốt đêm th́ quá nguy hiểm v́ pḥng thủ không có chiều sâu. Hơn nữa, nếu địch tiến sát, trộn trấu th́ không thể phân biệt được bạn và địch, và quân ta dễ bắn lầm quân ta, hoặc địch (v́ tiếng nổ của AK47 ṛn vang, khác với tiếng nổ lẹt đẹt của Carbin M1 của ta), chỉ tung lực đạn th́ biết địch ở đâu mà phản ứng. Thật là tiến thối lương nan…, súng cá nhân và lựu đạn gần như không xử dụng được v́ dễ bắn lầm bạn, làm lộ vị trí nên chỉ rờ quân phục của nhau và xử dụng lưỡi lê đánh cận chiến trong đêm tối… Ngay buổi chiều gần tối, trong ngày đầu giao tranh, một đoàn trực thăng UH1B của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ đă trực thăng vận Tiểu Đoàn 22 BĐQ do Đại Úy Phạm Văn Phúc làm Tiểu Đoàn Trưởng bay thấp sát ngọn cây tăng viện bên sườn trái, 2 km phía Nam hướng tiến quân của TĐ 21 BĐQ và Thiết Giáp (bên hướng rặng núi Chu Ho). V́ trời đă tối, TĐ 22 BĐQ đă án binh bất động, pḥng thủ qua đêm. Tuy có nghe tiếng quân CSBV di chuyển trong đêm nhưng TĐ 22 BĐQ đă không giao chiến với quân địch v́ tầm bắn quá xa, nên chỉ gọi pháo binh bắn tập trung vào hướng có địch di chuyển.

Thiếu Úy Ngô Hoàng Gia đă kể lại như sau:

Trong lúc đầu, khi mới vừa bị phục kích, Trung Đội 2/Đại Đội 1/TĐ 21 BĐQ của Thiếu Úy Ngô Hoàng Gia đă hăng hái dàn hàng ngang, xung phong thẳng vào cận chiến với địch, mỗi chiến sĩ BĐQ kể cả hiệu thính viên là một chiến sĩ trên tuyến xung phong. Cuộc cận chiến chỉ kéo dài khoảng hơn một tiếng đồng hồ th́ bóng tối đă ngả xuống, hạn chế tầm nh́n xa và quan sát tổng quát xung quanh. Trung Đội 2 tiếp tục duy tŕ đội h́nh cho đến gần khuya th́ lần lượt tập họp thành từng nhóm nhỏ, dựa vào nhau hoặc những cây lớn để bảo vệ lẫn nhau. Đến khi trời sáng, kiểm điểm lại trung đội, Thiếu Úy Ngô Hoàng Gia nhận thấy có 2 chiến sĩ đă hy sinh và 3 chiến sĩ bị thương.

Tại Đại Đội 2 BĐQ, tôi t́m cách liên lạc với ĐĐT Vơ Vàng và các trung đội bạn để tập hợp, nhưng mọi cố gắng đều không thực hiện được v́ đêm tối biết đâu mà t́m. Vả lại, nhiệm vụ chính là phải bảo vệ cận pḥng cho chiến xa mà ḿnh tùng thiết. Phản ứng cấp thời khiến tôi đi kiếm một sĩ quan thiết giáp gần nhất, sau đó gặp một Chuẩn Úy tên Tuyển trắng trẻo, to con, đẹp trai và bàn với nhau gom được 6 chiếc thiết giáp M41 tiến lên sườn đồi bên cánh trái của trục tiến quân, làm chu vi pḥng thủ qua đêm, với 23 chiến sĩ BĐQ mà tôi gom lại được. Các bụi cây rậm rạp xung quanh được thiết giáp cán rạp hết để làm vị trí đóng quân, khai quang xạ trường và để dễ dàng quan sát t́nh h́nh địch. Sau khi thiết ǵáp bố trí ṿng tṛn xong, các chiến sĩ BĐQ đă đào hố pḥng thủ giữa khoảng cách của 2 chiến xa để ngăn chặn không cho địch tràn lọt vào khoảng trống. Mọi người đều ngồi trong hố suốt đêm, hướng súng ra ngoài, sẵn sàng nổ súng nếu phát hiện bất cứ ai di chuyển và gây tiếng động bên ngoài, do đạp hay đụng phải cây cối gẫy đổ xung quanh.

Chuyện Trớ Trêu

Trong đêm, bất ngờ nghe tiếng người di chuyển, một chiến sĩ thiết giáp gác giặc trên pháo tháp la vừa đủ nghe: “Ai …” Yên lặng … “Ai …” nữa.

Địch có lẽ đang dưới đường đất tiến lên trên đồi do quân ta pḥng thủ. Tôi ngồi dưới hố chung với hiệu thính viên mang máy truyền tin PRC-10, giận điên người v́ sự thiếu kinh nghiệm của người lính thiết giáp.

Giữa đêm tối im lặng, tôi la lên thật lớn, nhiều lần: “Bắn đi … Bắn đi …” mà người lính đó vẫn không bắn. Tiếp theo đó tôi nghe tiếng quân địch la to: “Lực lượng mạnh…”, sau đó B40 hoặc B41 nổ rền khắp nơi, cùng tiểu liên AK47 và thượng liên nổ ṛn tứ phía. Lúc đó, đại liên 50 của ta mới khai hỏa và 6 chiéc thiết giáp M41 nổ máy di chuyển xịch tới, xịch lui để tránh đạn chống chiến xa. BĐQ chúng tôi đang ngồi dưới hố giao chiến, không sợ bị địch bắn, mà chỉ sợ thiết giáp phe ta đè nát, do đó tất cả đều nhảy lên khỏi hố cá nhân, di chuyển tiến và lùi theo sự di chuyển của thiết giáp.

Sau lúc giao tranh, mặt trận trở lại yên tĩnh, chúng tôi lại nhảy xuống hố pḥng thủ như cũ, sẵn sàng ứng chiến … Một lúc sau, tôi đang ngồi trong hố với hiệu thính viên, vô t́nh quay ra sau lưng, nh́n vào bên trong chu vi pḥng thủ, thấy một bóng đen mờ mờ (v́ ngồi dưới hố nh́n lên trời, cây cối và bụi rậm đă khai quang hồi chiều) đang lần ṃ đi sau lưng chiếc thiết giáp kế bên … Đúng là số mày Bà giắt hoặc linh tính đă khiến tôi hỏi nhỏ cho hắn đủ nghe: “Ai …?”. Hắn trả lời: “Bộ binh”, có lẽ đó là mật khẩu của địch để nhận nhau trong đêm tối. Tôi nhớ lại, có một tiểu đoàn bộ binh, thuộc Trung Đoàn 42 Biệt Lập đi hành quân chung, có lẽ đi cánh nào khác mà suốt cuộc hành quân tôi chưa bao giờ thấy lính bộ binh của đơn vị đó. Tôi nghĩ có lẽ đơn vị hắn bị đánh, và chạy lạc sang cánh BĐQ chăng? Tôi nói với hắn: “Đây là BĐQ, không phải Bộ Binh, đi chỗ khác chơi …!!! Hắn vội trả lời: “Dạ, dạ …” và đi ngược lại vào trong chu vi pḥng thủ.

Tôi chợt nghĩ đêm tối thế này làm sao hắn kiếm được đơn vị bộ binh của hắn. Tôi bèn nói: “Đêm tối làm sao mà về đơn vị được, thôi nằm sau lưng tôi, sáng đi kiếm sau.” Hắn: “Dạ, dạ …” và nằm xuống sau lưng tôi. Tôi vẫn ở dưới hố, chong súng ra ngoài. Đơn vị BĐQ thời đó được trang bị súng cá nhân Carbin M1 bán tự động (bắn phát một), tôi ngoại giao với LLĐB/VN xin được bang súng gấp và bộ máy c̣ bắn tự động, trong khi đó Dân Sự Chiến Đấu Thượng đă được trang bị Carbin M2 tự động (thấy mà tủi thân, mặc dù BĐQ là lực lượng trừ bị, và ưu tú của Quân Đoàn).

Té ra trong lúc xung phong, tên địch đă chạy lọt vào trong chu vi pḥng thủ của quân ta và lúng túng kẹt lại, trong lúc đồng bọn đă tẩu tán hết. Đă rờ rẫm thiết giáp và nay lại biết rơ là BĐQ, muốn thoát ra khoảng trống giữa hai thiết giáp lại đụng quân ta ở giữa. Có lẽ hắn đă hồn xiêu, phách lạc, sợ quá nên thần kinh trở thành tê liệt, ḷ ṃ đi t́m lối thoát. Tôi chợt quay lại phía sau, đă thấy hắn nằm kế bên, nay lại thấy hắn đứng lên bỏ đi. Do linh tính tôi bước ra khỏi hố, tay trái cầm thân súng Carbin báng gấp, tay phải nắm vào lưng quần hắn, trên hai bày tay hắn. “Trời ơi lựu đạn chầy!!!” Tôi chết sững như Từ Hải chết đứng, tay phải vẫn nắm chặt 2 bàn tay hắn trên lưng quân. Hắn đang tháo lựu đạn chầy ra, nhưng có lẽ run quá nên chưa tháo kịp. Tôi hoàn hồn trở lại, tay trái cầm thân súng Carbin kéo ra phía sau v́ sợ hắn giật cây súng, dọa hắn: “Mày mà động đậy là tao bắn.” Tôi rất muốn lùi tay ra sau về chỗ lẩy c̣ và cho hắn về thăm ông bà, nhưng làm sao buông dần thân súng để lùi tay được. Ngoài ra khóa an toàn chưa mở th́ cũng vô ích. Tên hiệu thính viên cùng chung dưới hố pḥng thủ với tôi cũng không biết ǵ hết. Tôi gọi nhỏ tên hắn, hắn bước ra khỏi hố và tôi nói với hắn: “Tên này là VC, trói hắn lại.” Hắn lúng túng măi mới kiếm ra giây trói 2 cánh tay tên địch ra sau lưng và trói chân, đặt nằm sau lưng và cạnh phía sau thiết giáp. Lúc đó tôi trở thành lính gác giặc bên ngoài và gác tên tù binh bên trong. Chỉ có tôi và hiệu thính viên biết việc này và tôi không nói cho ai biết hết v́ không biết trận chiến c̣n tiếp diễn ra sao, nếu nói ra làm mọi người hốt hoảng thêm, không ích lợi ǵ. Tờ mờ sáng, mặt trời chưa mọc, sương mù c̣n nhiều, một chiến sĩ BĐQ của tôi đi tới, có lẽ kiếm tôi và tôi chỉ tên VC bị trói nằm đó. Hắn nhảy lùi lại, la hoảng lên: “Giết hắn đi.” Tôi ph́ cười. Sau đó tôi gọi Chuẩn Úy Tuyển của thiết giáp chui từ trên pháo tháp M41 đi xuống và chỉ cho hắn tên VC nằm sát cạnh thiết giáp. Hắn giật bắn người và la hoảng lên: “Giết hắn đi …” v́ tên địch nằm kề bên cả đêm mà thiết giáp không biết ǵ hết.

Lúc đầu tên tù binh rất sợ sệt v́ ai cũng đ̣i giết, nhưng sau thấy tôi đối xử tử tế, cho ăn, uống, hút thuốc (mặc dầu tay vẫn bị trói), thăm hỏi t́nh h́nh, quê quán … tôi c̣n nhớ tên hắn là Trung và mặt mày hắn tươi tắn, sáng rỡ, cười nói thành thật những ǵ tôi hỏi v́ biết chắc là thoát chết. Sau đó hắn xin nới lỏng dây trói, xin tháo dây trói và hứa sẽ không bao giờ bỏ chạy. Thấy hắn hiền lành và tội nghiệp, tôi cho tháo dây trói chân. Cũng may cho tôi là súng của hắn đă bị mất trong lúc giao tranh, nếu không th́ mạng của tôi cũng nguy rồi, đâu c̣n dịp kể lại kỷ niệm này cho các bạn nghe …

Một kỷ niệm nhỏ khác là trong máy truyền tin PRC 10 của tôi có tiếng nói lanh lảnh, sắc bén, chanh chua, đanh đá của một cô gái Bắc Kỳ thuộc Mặt Trận B3 (bộ chỉ huy mật khu) kêu ra rả: “Sơn Tây gọi Đồng Đăng, trả lời.” Danh hiệu truyền tin toàn những địa danh miền Bắc. Nghe măi điếc cả con ráy, máu tiếu lâm của tôi lại nổi lên, hơn nữa cũng muốn cô ta ra khỏi tần số nội bộ của tôi, bèn nói với cô: “Đồng Đăng nó chết đă lâu rồi, thôi đừng gọi hắn nữa, nghe hoài … khổ lắm… nói măi …” Tôi nghĩ cô ta nghe như vậy cũng phải ph́ cười, nhưng lệnh là lệnh, cô ta vẫn kêu ra rả như chim cuốc kêu mùa hè.

T́nh Đồng Đội

Sáng hôm đó, tôi cho lính lục soát xung quanh thâu lượm súng của ta và địch gom thành bó và báo cho M113 tới chở đi cùng tù binh v́ trên lại có lện tiến quân. Súng ống tịch thu quá nặng làm sao mà khiêng vác nổi trên đường hành quân.

Cùng lúc đó, có một chuyện vừa đau thương và vừa tức cười là có một số chiến sĩ BĐQ của tôi bị tử thương, tôi ra lệnh cho một binh sĩ dưới quyền lấy poncho (áo mưa, làm lều) gói bọc xác các đồng đội tử thương lại. Có lẽ lính mới, nên không dám rờ tử thi. Tôi quắc mắt, làm nghiêm ra lệnh: “Hắn có đánh, có cắn đâu mà mày sợ cái ǵ chớ? Mày mà không lo cho bạn bè, đồng đội th́ tới lượt mày, không ai lo cho mày đâu…” Nghe nói vậy, hắn sợ cho bản thân, đi làm ngay lập tức. Tôi thấy vậy cười thầm trong bụng, nhưng ḷng đầy xót xa … Lính BĐQ sống mạnh, sống hùng nhưng không sống lâu; đạn tránh người chứ người làm sao tránh được đạn. Người ta ai cũng chết, không chết trước th́ chết sau cũng thế thôi, nhưng sống, chết có ư nghĩa và được mọi người thương mến th́ mới là trọn vẹn.

Cho đến lúc gần sáng, bộ phận c̣n sống sót của 3 Tiểu Đoàn 344, 365 và 966 của Trung Đoàn 32 CSBV đă rời bỏ chiến trường, kéo rút về căn cứ đóng tại rặng núi Chu Prong, sát gần biên giới Cam Pu Chia. Một số bị thương nặng đă được khiêng, vác đến một bệnh viện dă chiến, với một vài nhà thấp làm bằng cây rừng và cỏ tranh sơ sài chỉ cách trại LLĐB Plei Me khoảng 13 km theo đường chim bay về hướng Tây Nam.

Đến sáng ngày 25-10-1965, sau khi đă thu dọn chiến trường và tải thương, Tiểu Đoàn 21 BĐQ và lực lượng thiết giáp, thiết vận xa đă tiếp tục tiến về hướng trại Plei Me, giải tỏa xung quanh, và chấm dứt sự vây hăm công đồn của quân CSBV.

Phần Kết

Mặc dù quân số của địch đông hơn, chủ động trong trận đả viện, vũ khí tối tân hơn, địa thế thuận lợi để phục kích đoàn quân tiếp viện, nhưng quân ta vẫn hoàn thành nhiệm vụ là giải vây cho tiền đồn Plei Me, bẻ găy kế hoạch cắt đôi Cao Nguyên của kẻ địch.

Ba mươi chín năm sau trận chiến Plei Me mà tôi đă được tham dự và 29 năm sau tháng Tư đen, thực tâm tôi muốn quên đi những di lụy đau buồn của cuộc chiến. Nhưng người em trai của tôi cứ thúc dục tôi viết để bổ túc những thiếu sót và để các thế hệ mai sau hiểu rơ thêm một khía cạnh của cuộc chiến tranh VN, nên tôi xin phép được góp vài lời sơ, ư thiển vậy.

Trần Quốc Cảnh, K19
(Trích Đa Hiệu số 74, tháng 6/2005)

Tài liệu tham khảo

- Chính

- Sách báo

* Pleiku, the Dawn of Helicopter Warfare in Vietnam, J.D. Coleman, St. Martin's Press, New York, 1988.

* We Were Soldiers Once… and Young, General Harold G. Moore and Joseph L. Galloway, Random House, New York, 1992.

* "First Strike at River Drang", Military History, Oct 1984, pp 44-52, Per. Interview with H.W.O Kinnard, 1st Cavalry Division Commanding General, Cochran, Alexander S.

* The Siege of Pleime, Project CHECO Report, 24 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

* Silver Bayonet, Project CHECO Report, 26 February 1966, HQ PACAF, Tactical Evaluation Center.

- Việt Cộng

generalhieu.com