Tướng Lãnh Việt Cộng

(Xin cống hiến độc giả bài này với dụng ý giúp quí vị có một khái niệm chung về một số tướng lãnh CSVN. Nguyễn Văn Tín, ngày 19/01/2009) 36. Đánh tráo lương tâm

Đây có thể gọi là thủ thuật đánh tráo 'lương tâm'. Lương tâm của nhà văn can đảm đấu tranh chống áp bức độc đoán được đổi bằng 'lương tâm' khác: tha tội cho kẻ tàn ác đối với ḿnh, cư xử có 'lễ' đối với bộ máy đàn áp hà khắc, mà lương tâm vẫn cảm thấy yên ổn. Tôi nghĩ đến một trường hợp khác: tướng Trần Văn Trà. Thượng tướng Trà là một tướng có tài năng. Ông là con người gắn bó với chiến trường miền Nam, thường xuyên nhất, bền bỉ nhất, trong thời gian dài nhất. Từ khu trưởng khu 8 thời kháng chiến Pháp, ông là tư lệnh miền Nam rồi tư lệnh B2 (Nam Bộ) thời chống Mỹ. Tôi có dịp ở gần ông 60 ngày liền ở Sài g̣n, trong trại Davis, sân bay Tân Sơn Nhất. Lúc ấy ông là trung tướng Trưởng đoàn đại biểu quân sự của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt nam, Trưởng đoàn đại biểu quân sự chính phủ Việt nam Dân Chủ Cộng Ḥa là thiếu tướng Lê Quang Ḥa.

Hai ông trưởng đoàn khác hẳn nhau. Khác hoàn toàn, cứ như là trái ngược nhau về tŕnh độ, tính t́nh, tác phong. Ông Ḥa to lớn, ông Trà tầm thước. Ông Trà vui tính, xởi lởi, ông Ḥa nghiêm nghị lạnh lùng. Ông Trà am hiểu chiến trường, nhiều kinh nghiệm, ông Ḥa lần đầu vào phía Nam, vốn là cán bộ chính trị, chính ủy của quân khu 4. Ông Trà chăm đọc sách, xem báo, ưa nghe âm nhạc, thích dùng máy ảnh, máy ghi âm, hiểu biết nhiều loại kỹ thuật, v́ vốn tốt nghiệp trường kỹ nghệ thực hành ở Huế. Ông Ḥa ít đọc, ít nghe đài, văn hóa mới qua trường văn hóa Lạng Sơn học tắt, chưa đậu lớp 7, xuất thân từ nông dân. Ông Trà đọc được sách tiếng Pháp, hiểu sơ qua tiếng Anh, ham học. Ông Trà rất thông minh, đối đáp sắc sảo ở bàn hội nghị. Ông Ḥa đối đáp khó khăn, thường phải do ông Lưu Văn Lợi, nhà ngoại giao ngồi cạnh, chuẩn bị cho các câu phát biểu. Tại các buổi chiêu đăi của các trưởng đoàn trong các câu lạc bộ không quân Huỳnh Hữu Bạc, ông Trà rất vui chuyện.

Đă thỏa thuận là không nói chuyện chính trị ở các buổi ăn tiệc ấy, nên ông Trà nói chuyện rất vui, linh hoạt. Chuyện phong tục, tập quán, chuyện món ăn, thể thao, chuyện ca hát, văn nghệ, cả đến chuyện vui, tiếu lầm gây cười. Ông Ḥa th́ giữ lặp trường rất 'vững', đến kỳ quặc. Hai buổi tiệc do hai Trưởng đoàn Mỹ và Sài G̣n khoản đăi, ông định không dự. Ông Trà thuyết phục măi, ông mới chịu đi. Nhưng ông ngồi đó, không cầm đũa hay cầm dao, th́a, mắt nh́n thẳng, không chạm cốc, không nói một câu? Ông chỉ ăn trong bữa tiệc ông Trà khoản đăi. C̣n phần ông, ông quyết đinh không mời ăn. Các trưởng phó đoàn ngày cuối c̣n đùa kháy ông rằng: một trưởng đoàn c̣n mắc nợ? Tất cả thành viên đoàn miền Bắc đều băn khoăn về thái độ cứng rắn đến kỳ quặc của một ông tướng đi làm ngoại giao! Họ quư trọng, cảm phục ông Trà bao nhiêu th́ lại phàn nàn về ông Ḥa bấy nhiêu.

Sau khi thống nhất đất nước, ông Trà cho ra cuốn hồi kư Kết Thúc 30 Nam Chiến Tranh, tập cuối của một loạt sách của ông viết về 30 năm chiến tranh. Ông bắt đầu từ tập cuối, rồi ngược ḍng lịch sử viết các phần khác sau. Cuốn sách vừa ra được hai tuần th́ ông Lê Đức Thọ triệu tập các cán bộ tuyên huấn, báo chí, xuất bản có mặt ở Sài G̣n để đưa ra nhận xét: đây là cuốn sách sai từ trang đầu đến trang cuối, viết không đúng sự thật. Tự đề cao ḿnh. Tổng cục chính trị ra lệnh cấm lưu hành trong quân đội, thu hồi từ các thư viện trong toàn quân!

Nếu đọc kỹ hai cuốn hồi kư, Chiến thắng mùa Xuân của tướng Văn Tiến Dũng do Hồng Hà ghi và cuốn của ông Trà th́ quả thật có nhiều chỗ khác nhau. Có những chỗ khác nhau do mỗi người ở một cương vị và vị trí khác nhau nên cách nh́n nhận khác nhau. Có chỗ khác nhau do mỗi người muốn nhấn nạnh những ư mà ḿnh muốn tô đậm. B́nh thường ra th́ không nên cấm cuốn nào, mà nên tổ chức thảo luận lành mạnh, ngay thật nhằm đính chính những sai sót. Theo tôi nghĩ cuốn sách ông Trà bị cấm là vì cuốn sách ấy nói lên một số sự thật đúng như nó có, mà những người lănh đạo cao nhất không muốn công nhận! Nếu nhận định một cách khách quan th́ công lao trong chiến thắng mùa xuân 1975 phần lớn thuộc về Bộ tư lệnh miền Nam, và phần thuộc về ông Trà có vẻ nhỉnh hơn hẳn một số nhân vật khác. Chính ông và Bộ tư lệnh miền đă sớm chuẩn bị và mở cuộc tiến công vào Phước Long cuối tháng 12-1974, một cuộc tiến công có nhiều khó khăn nhưng bảo đảm thắng lợi. Qua trận này đă có thể tham ḍ khả năng phản ứng của chính phủ Ford một cách chuẩn xác cho cả thời gian sau. Mặc dầu có ư kiến ngăn ông không cần ra Hà nội, ông đă cảm thấy nhất thiết phải có mặt ở đại bản doanh để góp ư kiến vào kế hoạch cụ thể của chiến dịch mở ra ở Tây Nguyên, trong đó xác định hướng tiến công chủ yếu vào Ban Mê Thuộc là rất hệ trọng.

Giữa bộ tổng tham mưu và các bộ tư lệnh chiến trường và quân khu thường có những điểm khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn nhau. Đó là mâu thuẫn giữa bộ phận và toàn cục, giữa trung ương và địa phương. Nam bộ lại ở xa, Bộ tổng tham mưu ở Hà nội không thể hiểu hết được t́nh h́nh cụ thể của chiến trường, những khó khăn, yêu cầu của nó cũng như những khả năng và tiềm lực của nó. Sự bén nhạy với những thay đổi, những chuyển biến của ta và của địch cũng khác nhau. Hơn nữa trong hệ thống lănh đạo và chỉ huy, không phải không có những trục trặc. Đại tướng Bộ Trưởng Quốc Pḥng Vơ Nguyên Giáp không có toàn quyền chỉ huy. Bộ chính trị được coi là cơ quan tối cao lănh đạo chiến tranh. Tổng bí thư có tiếng nói quyết định v́ kiêm Bí thư quân ủy trung ương. ủy viên Bộ chính trị Lê Đức Thọ từ đầu những năm 70 lại tham gia quân ủy trung ương và thường ứng cử ở đại hội đảng toàn quân. Ông thường tự coi là nhân vật quan trọng thứ hai sau Tổng bí thư khi quyết định những vấn đề quân sự. Tướng Trà rất hiểu mọi ngóc ngách của việc h́nh thành những quyết định quân sự trong đảng, trong bộ máy quốc pḥng, trong hệ thống lănh đạo và chỉ huy. Ông đă quyết định phải có mặt ở Hà nội, tiếp cận rất quả đoán Tổng bí thư đảng, ủy viên Bộ chính trị Lê Đức Thọ, Bộ trưởng Quốc pḥng Vơ Nguyên Giáp, Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng, xông vào cặn cơ quan Bộ tổng tham mưu, các cục tác chiến, cục quân báo, cục thông tin liên lạc, rồi tổng cục hậu cần, tổng cục kỹ thuật để làm cho ư kiến của ḿnh được chấp nhận, tranh thủ được sự chi viện đủ và kịp thời của bộ. Ông có những cách nh́n, cách nghĩ khác với tướng Lê Ngọc Hiền, Tổng tham mưu phó đặc trách về kế hoạch tác chiến. Ông từng tâm sự với tôi, nếu ông Phạm Hùng Bí thư đảng bộ miền Nam và bản thân ông không quyết chí ra Hà nội để tham gia những cuộc thảo luận về Đông Xuân 1974-1975 th́ có thể t́nh h́nh không chuyển biến nhanh chóng, suôn sẻ như đă xảy ra. Trên hiểu dưới, dưới làm cho trên hiểu t́nh h́nh và góp ư kiến với trên, sự thông suốt trên dưới có ư nghĩa quyết định ở Bộ tham mưu, không thiếu ǵ những ông quan liêu (tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng đến đầu năm 1975 mới đặt chân đến miền Nam). Họ chỉ nắm t́nh h́nh chiến trường trên giấy, trong tưởng tượng, họ sống ở Hà nội, trong khung cảnh ḥa b́nh, không sao có sự bức xúc của những người sống ở chiến trường ác liệt, lối nghĩ, lối sống, tinh cảm, lề lối làm việc rất khác nhau. Chỉ một việc làm vô trách nhiệm, tắc trách, đại khái, không nhiệt t́nh với chiến trường là gây ra biết bao tai hại, thậm chí dẫn đến thất bại và những hy sinh xương máu của chiến sĩ không đáng có.

Từng theo dơi t́nh h́nh các chiến trường, từng dự tổng kết các chiến dịch lớn, đặc biệt là chiến dịch xuân 1975, tôi có nhận thức rất sâu sắc rằng đă có lănh đạo tập thể, đă có sự trùng hợp ư kiến trong đề xuất về kế hoạch của chiến dịch của nhiều người, nhưng giữa các vị tướng lĩnh th́ ông Trà nổi lên là người có công lớn, có đóng góp nổi bật nhất. Ông là người bắt mạch được chuyển biến của t́nh h́nh. sớm và sâu sắc nhất, cũng là người gỡ được những vướng mắc và trở ngại có thể có, làm cho toàn chiến địch được thuận lợi. Tôi từng khuyến khích ông viết hồi kư, từng gửi cho ông những hồi kư của các nguyên soái và tướng lănh Liên xô, về chiến tranh thế giới thứ hai để ông tham khảo. Tôi cũng nhận thấy sự ngăn cấm lưu hành cuốn sách của ông là vô lư, bất công. Thế nhưng cơ chế này không chấp nhận bất cứ ai có một cái nh́n riêng, có sự đánh giá cụ thể hơi khác với sự đánh giá của cơ chế.

Cơ chế vẫn là cỗ máy nghiền tai hại...

Hồi 1988, 1989 tướng Trà với nhận thức sắc sảo của ḿnh đă tham gia Câu lạc bộ những người kháng chiến cũ một cách tích cực. Trước đó, 1979 ông ra Hà nội nhận nhiệm vụ Phó tổng tham mưu trưởng, rồi Thứ trưởng quốc pḥng, đặc trách về trang bị và công nghiệp quốc pḥng, ông cảm thấy cơ chế quá cứng nhắc để có thể phát huy khả năng, nên lui về Sài g̣n viết hồi kư và suy nghĩ. Ông đă có những phát biểu rất đáng chú ư ở một số phiên họp của Câu lạc bộ này, công khai đề xuất yêu cầu dân chủ hóa, lên án tệ quan liêu, nạn tham nhũng, vô trách nhiệm.

Lập tức ông Nguyễn Văn Linh và ông Vơ Chí Công đến gặp ông. Khi ấy ông Linh là Tổng bí thư, ông Vơ Chí Công là Chủ tịch Hội đồng nhà nước. Ông Công lại c̣n là thông gia với ông Trà; con trai ông Công lấy con gái ông Trà. Ông Linh và ông Công ra sức thuyết phục ông Trà là lúc này đang đang khó khăn, không nên để cho kẻ xấu như các ông Nguyễn Hộ, Tạ Bá Ṭng lôi kéo vào hoạt động mang tính chất chống đảng, gây khó khăn thêm cho đảng... Thế là ông trở về với cơ chế. Ông lại c̣n dùng uy tín của ḿnh để thuyết phục những người khác v́ thương đảng, v́ có lương tâm với đảng, mà gác lại những yêu cầu về dân chủ, dân chủ trong đảng cũng như dân chủ trong xă hội. Thương dân hay thương đảng?

Cứu dân hay cứu đảng? Khi phải lựa chọn bên nào nặng hơn th́ lương tâm thật của ông có lúc nặng về người dân lầm thảm cơ cực, không có tự do, nhưng lương tâm ấy đă bị người ta đánh tráo một cách khéo léo để trở thành sự thủ tiêu đấu tranh; một sự an phận đồng lơa với sai lầm, bảo thủ và giáo điều, nhưng vẫn được ve vuốt, an ủi dưới nhăn hiệu: trung thành với chủ nghĩa xă hội, bảo vệ đảng, trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh...

Tôi vẫn tin rằng một con người can trường, nhiều lúc sáng suốt quả đoán, có tư duy độc lập như thượng tướng Trần Văn Trà vẫn c̣n có khả năng nổi lên như một người đấu tranh cho lẽ phải và tiến bộ của đất nước, chống lại những thế lực độc đoán, bảo thủ đến mức cổ hủ lệ hại.

Một người như tướng Trà màc̣n bị bịt mồm! Họ t́m mọi cách để bóp nghẹt mỏi tiếng gào thét đ̣i tự do một chút, đ̣i dân chủ một chút. Cứ như một em bé uất ức khóc nức nở nhưng bị người mẹ hung dữ bịt chặt lấy mồm! Và tiếng gào thét của em không sao cất thành tiếng. Một phản ứng tự nhiên, một đ̣i hỏi b́nh thường dể hiểu vẫn bị khước từ ở nước ta. Chúng ta vẫn c̣n như bắt phải sống ở một hành tinh khác, với những lối nghĩ cách sống hoàn toàn khác lạ...

37. Ông Tướng nông dân

Câu lạc bộ quân nhân ở Hà nội nằm trên đường Hoàng Diệu, ngay dưới chân cột cờ lớn của thành Thăng Long. Hồi trước tại đây có sân bóng đá Măng Gianh của quân đội Pháp. Câu lạc bộ quân nhân là nơi tập luyện, giải trí của sĩ quan công tác tại Bộ quốc pḥng. Các sĩ quan cao cấp từng chuyển ngành và về hưu cũng thường tới đây. ở đây có pḥng đọc sách, báo, có bàn bi da, có nhiều bàn ping-pong, nơi tập vơ thuật và đặc biệt mùa rét là có các pḥng tắm nước nóng. Bạn bè cũ mới thường gặp nhau ở đây, ngồi bên cốc bia hơi, ăn lạc rang, nói chuyện đủ thứ. Từ nhắc lại kỷ niệm ở các chiến trường xưa, đến chuyện về cuộc sống hiện nay, về bè bạn, kẻ c̣n người mất, về t́nh h́nh xă hội.

Có lần tôi ghé chơi bóng bàn, tắm rồi ra ngồi uống nước với các bạn cũ. Họ đang vui chuyện, bàn tán đến các ông tướng. Về các tướng cũ và tướng mới, tướng trẻ và tướng già, tướng chiến trường, đơn vị và tướng cơ quan. Có người đùa chia các tướng ra thành: Hổ tướng (tướng dũng cảm), lỳ tướng (gan lỳ), thát tướng (dát ra trận), bút tướng (tướng văn pḥng), hầu tướng (chuyên phục vụ cấp trên), lễ tướng (tướng thường xuất hiện trong các buổi lễ), gia tướng (tướng là gia nhân của các đại tướng), phục tướng (tướng chuyên quỳ gối, gọi dạ, bảo vâng), thọ tướng (tướng chuyên ở hậu phương)... Rồi có người nhắc đến đại tướng Nguyễn Chí Thanh, mất vào giữa năm 1967. Ông Nguyễn Chí Thanh là đảng viên cộng sản từ thời bí mật, là xứ ủy viên Trung kỳ. Ông quê ở Thừa Thiên, huyện Phong Điền, gần chợ Sịa, vốn là một cố nông lực lưỡng chuyên đi cày thuê. Là tá điền, đi hoạt động, bị bắt, ông học ở trong nhà tù. Năm 1945 sau cách mạng tháng Tám, ông là Chủ nhiệm Việt Minh Trung Bộ. Năm 1948 ông ra Việt Bắc nhận nhiệm vụ Chủ nhiệm Tổng cục chính trị của quân đội nhân dân. Năm 1950 ông rất được chú ư khi viết bài trên báo Quân Đội Nhân Dân lên án mạnh mẽ việc vi phạm kỷ luật về chiến lợi phẩm trong Chiến dịch Biên giới. Sau đó một loạt cán bộ bị kỷ luật rất nặng về tội lấy cắp chiến lợi phẩm (áo quần, chăn màn, máy ảnh, thuốc lá, đồ đạc, thức ăn trong các kho của các đơn vị quân Pháp), tham ô tiền lương ăn bớt tiến ăn của các đơn vị. Tiêu biểu nhất là viên đại tá Cục trưởng Cục quân nhu Trần Dụ Châu bị án tử h́nh v́ ăn cắp chiến lợi phẩm, chuyên gửi mua những đồ xa xỉ nhất từ Hà nội ra để dùng và ăn chơi trác táng. Tướng Nguyễn Chí Thanh là người trực tiếp đề nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt và y án xử tử h́nh Trần Dụ Châu để làm gương cho toàn quân.

Tuy xuất thân cố nông, văn hóa thấp, ông chịu khó học trong tù, chăm đọc sách, ham mê t́m hiểu t́nh h́nh mọi mặt của xă hội, ưa tranh luận về chính trị, quân sự, cả về văn học nghệ thuật... Ông rất năng động, hoạt bát. Người ta thường thấy ông mặc quần áo bà ba nâu, đạp xe bên anh lính hộ vệ, đi ra ngoại thành Hà nội, vào ngă tư Sở, xuống Cầu Giấy... để bắt mạch cuộc sống. Ông ghé vào hàng nước bên đường, uống nước chè, ăn kẹo lạc, hỏi chuyện bà hàng nước, nói chuyện với khách hàng khác. Ông thuộc Kiều, có khi lẩy vài ba câu. Ông thông minh, có trí nhớ khá tốt. Là Chủ nhiệm chính trị, ông lại rất ưa nghiên cứu, đọc sách về quân sự, về chiến lược và chiến thuật. Ông biết khá rơ về Tôn Tử, về Clausewitz, về Napoléon, về Lâm Bưu, về Joukov...

Là cán bộ xông xáo, năng động, có tŕnh độ khá lích lũy do tự học, ông có uy tín trong quân đội và ngoài xă hội. Sau đại hội 3 của đảng cộng sản cuối năm 1960, ông là ủy viên Bộ chính trị được số phiếu bầu rất cao, ông phụ trách thêm về nông nghiệp, về xây dựng hợp tác xă, đặc biệt là trong việc bồi dưỡng các chủ nhiệm hợp tác xă... Khi cuộc chiến đấu ở miền Nam phát triển, ông trở lại hoạt động hoàn toàn về quần sự và đầu năm 1964 ông vào chiến trường miền Nam làm đặc phái viên của Bộ chính trị rồi trực tiếp phụ trách luôn việc chỉ đạo trực tiếp toàn chiến trường phía Nam. Chính ông là người tổng kết về lư luận các trận đánh quân Mỹ đầu tiên tại ấp Bắc gần Mỹ Tho, Plây me (Tây Nguyên), tại Ba Gia, Vạn Tường ở miền Trung rồi B́nh Giă (Bà Rịa) ở miền Nam.

Những bài tổng kết lớn ấy được đăng trên báo Quân Đội Nhân Dân với bút danh Trường Sơn, có tác dụng rất lớn, xây dựng niềm tin có cơ sở rằng quân Mỹ được trang bị hiện đại, huấn luyện tốt nhưng có nhiều nhược điểm lớn. Đó là họ phải chiến đấu ở một chiến trường nhiệt đới xa lạ, trong một cuộc chiến tranh không tuyên bố v́ không gắn chặt với quyền lợi sinh tử của nước Mỹ, trước một đối phương có cách đánh linh hoạt, kết hợp lối đánh du kích với lối đánh hợp đồng binh chủng của 3 thứ quân trên cả 3 ṿng chiến lược: nông thôn, rừng núi và đô thị.

Những tổng kết nóng hổi của các trận ấp Bắc, Plây me, Ba gia, Vạn tường, B́nh giă - mỗi trận có những nét riêng bổ xung cho nhau, của tướng Nguyễn Chí Thanh đă góp phần xây dựng nên một kiểu 'binh thư đánh Mỹ', tác động rất lớn đến cuộc chiến đấu ở chiến trường. Các cán bộ quân huấn, tác chiến, quân báo, chính trị, hậu cần ở trường sĩ quan Lục quần, trường Cao cấp quân sự và Chính trị, ở miền Nam cũng như ở miền Bắc đều nghiên cứu kỹ những bài tổng kết ấy. Những bài báo của Trường Sơn được đài Tiếng Nói Việt nam đọc đi đọc lại nhiều lần, lại c̣n được đọc chậm để các nơi ghi lại làm tài liệu và phổ biến. Khẩu hiệu 'Nắm thắt lưng lính Mỹ mà đánh' là của ông Nguyễn Chí Thanh đưa ra, cổ vũ cách giấu quân thật kín, để cho quân Mỹ đến gần mới xông ra đánh bất thần và mănh liệt, gây bất ngờ và luôn giữ quyền chủ động. Những bài tổng kết của ông về các trận phản công mùa khô trong các chiến dịch của quân Mỹ ở miền Đông Nam bộ Junction City và Cedar Fall cũng có giá trị quan trọng về xây dựng bài bản chiến đấu cho các lực lượng vũ trang ở miền Nam.

Ông là một nhân vật chủ yếu đề xuất việc mở cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968. Ông từ chiến khu R lên Nom Pênh để đi máy bay ra Hà nội (qua Hồng Kông). Khi mọi việc đă bàn xong, ông quyết định trở về R cũng theo con đường đă đi th́ bị đột tử vào tháng 7-1967. Một ngày trước khi lên đường, ông dự tiệc tiễn chân của Quân uỷ trung ương buổi sáng, rồi của Tổng cục Chính trị buổi chiều, tại đó ông uống hơi nhiều rượu, khi trở về nhà ở phố Lư Nam Đế, tắm xong th́ bị cơn nhồi máu cơ tim. Việc cấp cứu tiến hành chậm. Ông vốn có bệnh yếu tim từ trước, cố gắng về thể lực thường hay khó thở. (Việc nói ông chết tại miền Nam trong một trận ném bom của B52 là hoàn toàn thất thiệt). Thế nhưng ở tướng Nguyễn Chí Thanh có một nét không thật b́nh thường. Ông có những suy nghĩ cực đoan. Ông từng viết hai bài luận văn lớn đăng kín cả 3 trang báo Quân Đội Nhân Dân. Bài thứ nhất hồi 1959 nhan đề 'Chủ nghĩa cá nhân là nguồn gốc của muôn ngh́n tội ác', và năm sau là bài 'Lại bàn về chủ nghĩa cá nhân.' Hai bài này được coi như tài liệu chỉnh huấn, để cán bộ tất cả các cấp học tập, thảo luận, liên hệ và kiểm thảo. Tất cả những căn bệnh tư tưởng đều được mổ xẻ, phê phán rất nghiêm: địa vị, bảo mạng, công thần, kèn cựa, suy tính về hưởng thụ, về tiền đồ, về nặng gánh gia đ́nh, lười biếng, tham ô, thiếu trách nhiệm, kém ư thức tổ chức và kỷ luật. Hai bài này đều viết theo cuộc nói chuyện của ông với cán bộ cao cấp của Bộ quốc pḥng và các đơn vị đóng gần Hà nội trong hai ngày Chủ Nhật tại Trường chính trị trung cao cấp ở Quần Ngựa.

Điều cực đoan ở ông là nhấn mạnh quá đáng vào chủ nghĩa tập thể, ca ngợi một chiều đến mức tuyệt đối: cái ǵ tập thể cũng tốt, cá nhân cái ǵ cũng kém, và gần như coi hoàn toàn không có tác dụng những động cơ cá nhân! Tôi c̣n nhớ ông đă cảm thấy bí, không sao giải đáp nổi một thắc mắc đơn giản do một cán bộ quân sự cấp trung đoàn nêu lên: tại sao ở trung đoàn tôi, tuy giáo dục rất kỹ, 6 xe đạp của công của tập thể đều hư hỏng rất nhanh, c̣n xe của cá nhân th́ đều sáng trưng, chạy rất tốt, ít hư hỏng. Vậy tập thể ưu việt ở đâu? Và tại sao nông dân sản xuất trên đất 5 phần trăm của riêng gia đinh ḿnh thu nhập rất cao, có khi hơn cả thu nhập từ ruộng tập thể chiếm 95 phần trăm diện tích?

Gần đây, tôi được biết thêm một nét 'kín đáo' của ông tướng 4 sao này. Hồi hoạt động ở Thừa Thiên và Trung Bộ, một lần ông bị mật thám Pháp bắt cùng một đảng viên cộng sản khác, người này về sau hoạt động trong quân đội, ở Tổng Cục Chính Tri, sau này ra ủy ban khoa học xă hội. Ông này được nhiều lần xét để đưa vào Trung ương đảng. Thế nhưng ông bị kẹt v́ cán bộ tổ chức biết rơ rằng trong vụ bị bắt ấy, trong hai người th́ đă có một người khai báo không ít với mật thám, làm phong trào sau đó bị tổn thất. Tất nhiên không ai nghi đại tướng Nguyễn Chí Thanh, ủy viên Bộ Chính Trị, một người chuyên lên gân giảng dạy về lập trường giai cấp, tinh thần kiên định, coi chủ nghĩa cá nhân, tinh thần bảo mạng cầu an là tội ác! Ông cán bộ này bị nghi oan, tinh thần bị dằn vặt, đau khổ. Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông cán bộ này cố t́m cách tiếp cận những tài liệu an ninh c̣n lưu lại từ thời Pháp ở Huế và Sài G̣n. Hy vọng ấy được thoả măn. Ông đă t́m thấy trong hồ sơ cũ từ hồi 1940, 1941 những biên bản hỏi cung của sở mật thám Huế. Th́ ra người thật sự đă khai báo không phải là ông mà là vị đại tướng sau này! Sự khám phá của ông lập tức được lệnh giấu kín!

[…]

39. Thời của các ông tướng địa phương

Nhiều bạn bè và người nước ngoài hỏi: Việt nam hiện có nhiều tướng giỏi không? Xin được trả lời: có chứ! Tướng giỏi không ít. Nhưng họ bị 'rơi rụng' hết? Như trên đă kể, vào những năm từ 1963 đến 1967, Cục bảo vệ quân đội theo lệnh của Bộ nội vụ và Trưởng ban tổ chức trưng ương Đảng bắt giữ hàng loạt cán bộ ở Bộ quốc pḥng, Bộ tổng tham mưu, được coi là thân cận nhất của tướng Giáp. Tất cả số ấy đều xuất thân từ học sinh, sinh viên, gia đ́nh tiểu tư sản thành thị. Không ai xuất thân từ bần cố nông cả. Đó là những sĩ quan xuất sắc. Đại tá Đỗ Đức Kiên nguyên là Kỹ sư canh nông, sang Liên xô học trường quân sự cấp cao được bằng đỏ, là cục trưởng tác chiến tài ba: Đại tá cục trưởng quân báo Lê Trọng Nghĩa vốn là sinh viên luật khoa, rất thông minh xuất sắc. Họ không đụng được đến đại tướng Vơ Nguyên Giáp v́ ông tỉnh táo, chặt chẽ, cẩn thận, giữ rất 'kín vơ', không để 'hở sườn', lại được chủ tịch Hồ Chí Minh quư và tin cậy, th́ họ cắt chân tay của ông.

Từ sau 1975, đặc biệt là mấy năm gần đây, những cận thần thân tín của ông Giáp thưa thớt dần. Số đông về hưu, một số đă chết. Cái chết của hai ông Đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn làm ông đau buồn khôn xiết. Tôi đă được thấy khá nhiều lần sự tin yêu của ông Giáp với hai ông đại tướng này. Ông Hoàng Văn Thái ở gần ông Giáp từ dạo c̣n ở bên Trung Quốc, và sau đó ở căn cứ Việt Bắc từ cuối năm 1944. Về Hà nội, chính ông Giáp đă chọn ông Hoàng Văn Thái làm Tổng tham mưu trưởng. Ông Thái ở Bộ Tổng tham mưu từ đó cho đến khi đột tử tháng 6 năm 1986! Trong 30 năm liền ở Bộ Tổng Tham mưu ông hàng ngày làm việc với ông Giáp với ḷng quư mến nhau không suy suyển. Văn pḥng Bộ quốc pḥng ở ngay sát Bộ Tổng tham mưu, cùng chung một Sở chỉ huy tác chiến. Từ năm 1957 trở đi, tuy ông lui xuống làm Tổng tham mưu phó thứ nhất, 'nhường' cho ông Văn Tiến Dũng làm Tổng tham mưu trưởng nhưng trên thực tế ông vẫn là linh hồn của Bộ tổng tham mưu, cán bộ tham mưu toàn quân được đào tạo lớp này đến lớp khác đều công nhận vai tṛ không thể thiếu được của ông trong sự trưởng thành của ḿnh. Như đă biết, ông với ông Giáp c̣n thông gia với nhau. Ông là người bạn tri kỷ mà ông Giáp có thể thổ lộ tất cả tâm t́nh. Mỗi lần ông Thái đến, ông Giáp lại nói: Anh Thái đấy à, vào đây? Vào đây! Với tất cả sự thân yêu.

Đúng nửa năm sau, ông Giáp lại khóc một lần nữa sau cơn đột tử vẫn lại đột tử, chết bất thần, nguyên nhân không thật rơ, của đại tướng Lê Trọng Tấn, một cán bộ quân sự có đức có tài. Trong toàn quân, ông Tấn có uy tín cực lớn, ông là lăo tướng xông xáo, có mặt ở mọi nơi nóng bỏng nhất. Là sư trưởng sư đoàn Công Pháo (Công binh - Pháo binh) ở chiến dịch Điện Biên Phủ, ông c̣n có mặt ở chiến trường Lào, ở chiến địch Sầm Nưa, rồi năm 1966 đến 1969 ở Trung ương Cục miền Nam, rồi tư lệnh cánh Duyên Hải tiến công từ Đà Nẵng qua Cam Ranh, Bà Rịa, Biên Ḥa, để vào Dinh Độc Lập... mùa xuân 1975. Ông nhớ hết mọi diễn biến, đặc điểm của các trận đánh lớn, những kinh nghiệm xử trí của người chỉ huy. Có thể nói ông không có một ham mê nào, không uống rượu, không uống bia, luôn suy nghĩ về các trận đánh. Biết rằng ông vốn xuất thân từ một 'anh đội tàu bay' ở sân bay Bạch Mai thời Pháp, lên đến Đại Tướng, sắp nhận chức Bộ Trưởng Quốc Pḥng chỉ 10 ngày trước khi khai mạc Đại hội đảng lần thứ 5 (tháng 12-1986), ta sẽ hiểu rằng ông đă phải phấn đấu ra sao. Ông Giáp và ông Tấn rất quư mến nhau v́ rất hợp rơ (jeu) nhau trên các bản đồ quân sự. Ông Giáp đă có lần nói: ở trận nào mà anh Tấn có mặt để đốc chiến (đôn đốc tác chiến) là ḿnh có thể yên tâm đến hơn 50 phần trăm rồi!

Tôi đă kể về Đại hội đảng toàn quân diễn ra 3 tháng trước đại hội đảng toàn quốc lần thứ 5, tại đó bất ngờ cực lớn đă diễn ra, làm cho các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Chu Huy Mân, Văn Tiến Dũng, Đặng Vũ Hiệp, Mai Chí Thọ... giật ḿnh như bị điện giật! Bất chấp sự lănh đạo trên cơ sở dân chủ tập trung, bất chất sự hướng dẫn của đoàn Chủ tịch đại hội, đông đảo đại biểu dù đă được tuyển lựa kỹ từ cơ sở đă dứt khoát không bầu các vị Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Đặng Vũ Hiệp, hai đại tướng và một trung tướng vào danh sách đại biểu chính thức đi dự đại hội đảng toàn quốc. Ông Giáp và ông Tấn được số phiếu cao nhất. Đại tướng Văn Tiến Dũng chỉ trúng là đại biểu dự khuyết; trước khi đại hội khai mạc đúng 10 ngày, ông Lê Trọng Tấn đột tử nên ông Dũng mới được bổ xung vào toàn đại biểu để vừa hân hoan vừa ngượng ngùng lọt vào hội trường Ba Đ́nh? Mấy hôm sau đại hội toàn quân, tôi gặp các bạn cũ ở Câu lạc bộ Ba Đ́nh, mấy viên tướng và đại tá hồ hởi: 'Có thế chứ! Đổi mới cũng có khác chứ! Các đại biểu tinh đời thật? Không thể cứ cúi đầu vâng dạ như cũ được nữa!' Các sĩ quan cấp cao đă dám kể cho nhau nghe những bê bối của các quan lớn và các bà lớn, miệng nói không ngớt: v́ dân, biết ơn các liệt sĩ chiến lợi phẩm là xương máu chiến sĩ, mà vợ chồng các ngài cứ chở ḱn ḱn về nhà, hết ḥm này đến ḥm khác, để dột từ nóc xuống. Chỉ khổ cho anh lính quèn. Đi xe lửa về phép, mang về chiếc quạt máy nhỏ, chiếc máy thu thanh cũ... cũng bị hạch sách, c̣n các ngài th́ tha hồ chồng chất trong khoang máy bay và tàu biển... Mọi người hy vọng: đại hội đảng toàn quốc dân thứ 5 chắc sẽ c̣n cho thấy nhiều điều mới lạ hơn! Thế mới là đổi mới chứ! Đến Đại hội 5, mọi người chưng hững! Người la lắc đầu, ngao ngán.

Sau đó, ở Bộ quốc pḥng, một loạt tướng ở địa phương được gọi về. Các tướng hiện công tác ở Bộ quốc pḥng không được tin cậy nữa! Cuộc 'mi-ni nổi loạn' ở đại hội toàn quân là từ các đoàn đại biểu ở các cơ quan của Bộ và các học viên, nhà trường trực thuộc bộ, đặc biệt là từ đoàn đại biểu của học viên quân sự cấp cao, nơi tập trung đông nhất những tướng và đại tá có tài, có tŕnh độ, có nhiều kinh nghiệm nhất. Thế là từng đoàn các cán bộ của cục bảo vệ, của thanh tra quân đội, của ban kiểm tra quân uỷ trung ương ương tới tấp lao về Học viện quân sự cấp cao ở phía chợ Bưởi, ngoại ô thủ đô. Cả bộ máy an ninh, tổ chức, tuyên huấn được huy động để kiểm tra từng đoàn đại biểu, từng đại biểu khi cần, để hiện tượng 'lỏng lẻo', 'mất cảnh giác', 'dân chủ quá trớn' ở Đại Hội Đảng toàn quán tuyệt đối không được lập lại.

Một cuộc chấn chỉnh lớn trong hàng ngũ sĩ quan cấp cao diễn ra sau đó. Bộ ba quan trọng nhất đều là các tướng từ địa phương rút về: tướng Lê Đức Anh, nguyên là từ quân khu 9 trong thời chiên tranh, nơi tận cùng phía Nam, địa bàn vốn được coi là yên tĩnh hơn cả, ít ác liệt hơn cả v́ không có quân Mỹ ở đó, cũng không có các đơn vị thiện chiến nhất của Sài g̣n hoạt động, từ 1981 ông là tư lệnh quân Việt nam ở Cam Bốt.

Người thứ hai là trung tướng Đoàn Khuê , quê ở Quảng Trị, nguyên là thượng tá chính uỷ lữ đoàn giới tuyến đóng ở huyện Vĩnh Linh từ năm 1955 đến 1962, giáp với giới tuyến quân sự tạm thời. Năm 1963 ông vào chiến trường Quân khu 5 làm Phó chính ủy Quân khu, lấy tên là Tŕnh. Sau 1975 ông lên làm Tư lệnh Quân khu 5 với quân hàm thiếu tướng rồi trung tướng. Tôi đă ghé qua quê ông, làng Gia Đẳng ven biển huyện Triệu Phong, cha ông là chánh tổng, giàu nhất làng, có rất nhiều đồ đồng ở trong nhà cũng như chôn dấu dưới những đụn cát cao. Ông đi hoạt động sớm, mới học đến lớp hai trung học thời Pháp, rồi bị bắt, đi tù ở Quảng Trị và Ban Mê Thuộc. Cha ông từ ông v́ sợ liên lụy. Em ruột ông là thiếu tướng Đoàn Chương, giám đốc nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân. Cán bộ cấp cao quân sự đều biết ông Đoàn Khuê là cán bộ chính trị, hiểu biết về quân sự và kinh nghiệm chỉ huy c̣n ít, không hề được đào tạo về chỉ huy. Ông nổi tiếng là phát biểu cứng rắn, cực đoan, theo công thức khô khan và máy móc, tiêu biểu cho một viên chính uỷ ít học nhưng lại luôn thuộc ḷng các công thức, ăn nói 'đúng' lập trường kiểu lên gân mà không hề ngượng.

Người thứ ba là thượng tướng Nguyễn Quyết, nguyên là chính uỷ quân khu 3, đóng bản doanh ở Kiến An, gần Hải Pḥng. Ông người nhỏ nhắn, mặt thư sinh, tham gia tổng khởi nghĩa tháng 8 năm 1945 ở Hà nội, vào chiến trường miền Nam một thời gian ngắn ngay sau đó. Ông vốn là cán bộ chính trị, là một chính uỷ thành nghề, đúng như h́nh ảnh được phác họa theo kiểu văn học dân gian hiện đại:

Ngang lưng th́ thắt lập trường
Đầu đội chính sách vai quàng chủ trương
Mở miệng là nói huyên thuyên
Hết niệm cụ Mác lại truyền kinh Mao
Đời là kinh, tướng măi cao.

Sau đại hội 6, ba ông tướng địa phương rút lên trung ương, đánh bạt tất cả hàng mấy chục tướng giỏi, tướng có văn hóa, có thực tài chỉ v́ một đường lối chính trị cũ kỹ đến cổ hủ, run chân trước ư thức dân chủ vừa manh nha, ôm giữ quyền lực đến cùng v́ lợi riêng. Bộ trưởng Bộ quốc pḥng, Tổng tham mưu trưởng và Chủ nhiệm tổng cục chính trị luôn là một bộ ba quyền lực lợi hại nhất nắm lực lượng quân đội. Đến Đại hội 7 (tháng 6-1991), bộ ba có thay đổi chút ít để thành bộ bốn, theo hướng củng cố cho vững thêm hạt nhân cứng rắn: Bộ trưởng Lê Đức Anh lên nắm chức vụ chủ tịch nước; chắc chắn hàng trăm vị tướng vốn là cấp trên ông phải nhún vai lắc đầu! Năm 1964 ông mới là một cục phó loại trung b́nh trong cục tác chiến của Bộ tổng tham mưu với cấp trung tá. Thời đánh Pháp, ông c̣n là một cán bộ vô danh. Nay ông ôm cả một mảng lớn quốc pḥng, an ninh, ngoại giao, nội trị. Tổng tham mưu trưởng Đoàn Khuê lên thế ông ở chân Bộ trưởng quốc pḥng, cuối 1974 ông c̣n là một phó chính uỷ với cấp đại tá, lúc ấy ở Bộ quốc pḥng đă có hơn 30 ông tướng! Tướng tài, tướng giỏi lên vượt cấp là chuyện b́nh thường, nhưng đây chỉ là tướng 'thông suốt' với đường lối bảo thủ, thế thôi! Tổng tham mưu trưởng mới là trung tướng Đào Đ́nh Luyện, lại mới lên thượng tướng cho tương xứng với chức vụ. Đây cũng là chuyện không b́nh thường, v́ tướng Luyện là tướng không quân, mà thường tổng tham mưu hay tham mưu trưởng các quân đoàn, quân khu đều là tướng bộ binh, để chỉ huy hợp đồng binh chủng, lấy bộ binh làm chủ. Tướng Luyện là một trong những người lái máy bay quân sự đầu tiên của miền Bắc Việt nam, tốt nghiệp lái máy bay ở Trung Quốc hồi 1957, đến 1960 lại đi tu nghiệp thêm ở Liên xô. Ông chăm chỉ, cán thận, anh em cấp dưới mến, sống giản dị, người cao to, da ngăm đen, vốn quê vùng chiêm Thái B́nh nhưng tính t́nh có nét khác lạ là 'như con gái' trong quan hệ với bạn bè, gặp phụ nữ là đỏ mặt, và rất 'sợ' cấp trên. Suốt trong cuộc chiến đấu chống không quân Hoa Kỳ ném bom bắn phá miền Bắc, ông là tư lệnh không quân. Có lẽ ông được chọn vào chức vụ mới tổng tham mưu trưởng là v́ tính kỷ luật rất cao, trên bảo ǵ là 'Rơ rơ!' ngay, một tinh thần viên chức cao lấn át hết tinh thần công dân. Bảo làm ǵ là làm nấy, như một cỗ máy hoàn hảo, không cần suy nghĩ băn khoăn làm như thế v́ sao? Để làm ǵ? Khi quân đội rất có thể được dùng cho một mục tiêu chính trị chống lại phong trào dân chủ của quần chúng th́ cần người chỉ huy như thế. Xin đọc những lời huấn thị của bộ trưởng Đoàn Khuê th́ rơ: 'Quân đội ta phải sẵn sàng bảo vệ chế độ, thẳng tay trừng trị những mưu đồ diễn biến ḥa b́nh' được bọn đế quốc và phản động giật dây...' Tôi quen biết tướng Luyện khá rơ v́ hồi chiến tranh thường lui tới sở chỉ huy không quân để theo dơi cuộc chiến đấu của anh em lái trẻ.

Người thay tướng Nguyễn Quyết ở cương vị chủ nhiệm Tổng Cục chính trị quân đội nhân dân là một bộ mặt mới, gần như không ai biết đến trước năm 1986. Đó là tướng Lê Khả Phiêu, mới ở cấp trung tá cuối năm 1974. Một cán bộ 'trẻ', hơn 50 tuổi, lại mang bản chất thuần túy nông dân. Ông là chủ nhiệm chính trị quân đoàn, cũng từ địa phương, được điều về Bộ, nhảy cóc lên thiếu tướng năm 1979, lên trung tướng năm 1989, lên thượng tướng cuối năm 1992, sau khi được bổ xung vào ban bí thư trung ương đảng. Một viên tướng 'vâng dạ địa phương về triều đ́nh do yêu cầu chính trị mới.

Trong khi ở Bộ Quốc Pḥng, không thiếu các tướng tài hơn 4 vị nói trên khá nhiều. Như Thượng tướng Hoàng Minh Thảo, nguyên là sư trưởng sư đoàn 304 từ khi mới thành lập năm 1951, thông minh, có học vấn, đọc được cả sách tây, tàu, mới đây là viện trưởng học viện quân sự cấp cao; ông rất quư đại tướng Giáp, và đầu năm 1989 bị một tai nạn xe hơi bất ngờ, may mà thoát chết? Ở học viện này c̣n có tướng Hồng Sơn sinh viên năm 1945, em luật sư Nguyễn Thành Vinh, tên thật của ông là Nguyễn Thành Chính, là con rể nhà học giả Đặng Thai Mai, anh em cọc chèo với đại tướng Giáp; trung tướng Đỗ Tŕnh phó viện trưởng, có tŕnh độ nghiên cứu khá cao về lư luận và chiến lược quân sự; trung tướng Mai Trọng Tần có bằng toán học cao cấp năm 1945, rất xông xáo, lại có tŕnh độ tổng kết...

Xuất sắc hơn cả có thể là Trung tướng Nguyễn Hữu An, hồi 1975 là tư lệnh quân đoàn 2, sau về làm Tổng Thanh tra quân đội, từ năm 1988 ông nhận chức giám đốc trường đào tạo cán bộ chỉ huy ở Đà lạt; Ông có đầy đủ các đức tính của một viên tướng, có tŕnh độ văn hóa, sống giản dị, đàng hoàng, mực thước và chân thật, sức khỏe tốt, ông được đại tướng Giáp tin cậy giao cho nhiệm vụ đánh trận mở đầu chiến dịch Điện Biên Phủ chiếm căn cứ 'Độc Lập' ở phía Bắc, khi c̣n là trung đoàn trưởng giỏi nhất của sư đoàn 312. Tŕnh độ quân sự và đức độ của ông vượt xa cả tướng Lê Đức Anh, Đoàn Khuê, Đào Đ́nh Luyện... tín nhiệm trong quân đội cũng vượt xa các ông tướng kể trên. Thế nhưng những người lănh đạo hiện nay cần đến những viên tướng tŕnh độ trung b́nh, kém cỏi nữa, miễn là họ thuận theo một đường lối chính trị giáo điều, bảo thủ, bảo vệ một chế độ độc đoán đă đánh rơi hết niềm tin của quần chúng, bị quần chúng coi thường, không c̣n sợ như trước, lại c̣n bị khinh thường nữa.

Bùi Tín
Mặt Thật
Paris, mùa thu 1993
Nhà xuất bản SAIGON PRESS

Tướng Hiếu, Một Thiên Tài Quân Sự?
Các Tướng Lănh QLVNCH
generalhieu