(Đại Tá Le Gro ghi là “các nguồn tham khảo chính về chi tiết hành quân và t́nh báo được cung cấp bởi sĩ quan liên lạc viên DAO tại Biên Ḥa tiếp xúc hằng ngày với Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III, đặc biệt với Đại Tá Lê Đạt Công, Pḥng 2,” và là “các bản báo cáo này là những tài liệu đầy đủ, trung thực, và chính xác nhất.” Ông cũng viết là ông “thường thăm viếng Biên Ḥa, và các bản ghi chép riêng của ông cũng được xử dụng trong chương này.” Chắc hẳn viên sĩ quan liên lạc viên DAO tại Biên Ḥa có dịp tiếp xúc hằng ngày với Tướng Hiếu, Tư Lệnh Phó Hành Quân Quân Đoàn III, và Đại Tá Le Gro không bỏ lỡ dịp hội kiến với Tướng Hiếu, trong các chuyến ông viếng thăm Biên Ḥa.- Nguyễn Văn Tín, ngày 07/12/2005)

Lễ Giáng Sinh Cuối Cùng: Phước Long

Trong loạt bài tường thuật về “Đại Thắng Mùa Xuân”, Tướng Văn Tiến Dũng của Bắc Quân mô tả các cuộc thảo luận của Ủy Ban Trung Ương Quân Sự và Tham Mưu trong khi họ duyệt xét các biến cố của chiến dịch mùa hè. Ông viết, từ tháng 4 đến tháng 10, từ Thừa Thiên vào tới Sài G̣n, các lực lượng Cộng Quân đă gia tăng nhịp độ tấn công và đă chiến thắng lớn như thế nào. Lẽ đương nhiên, sự kiện cho thấy là Cộng Quân bị chận đứng tại các đầu và cuối của băi chiến trường trải rộng này - tại Thừa Thiên và xung quanh Sài G̣n – nhưng đă tràn ngập các căn cứ cô lập tại vùng Cao Nguyên và thành công với một giá đắt trong việc xâm nhập vào ven cạnh đồng ruộng của Quảng Nam. Cuộc chiến thắng sau cùng này mang một ư nghĩa to lớn đối với Tướng Dũng và các kế hoạch gia Cộng Quân:

Chúng tôi đặc biệt chú tâm tới kết quả của một cuộc chiến đă triệt hủy thủ phủ Thường Đức trong Quân Khu 5. Đây là một trắc nghiệm đối với các lực lượng tinh nhuệ nhất của địch quân. Chúng ta đă phá hủy các lực lượng địch bảo vệ thủ phủ cuả tiểu khu Thường Đức. Địch quân đă tung vào trọn một sư đoàn dù để đánh phản công ngơ hầu tái chiếm địa điểm này, nhưng chúng ta đă đánh tan các lực lượng địch, giữ vững Thường Đức và buộc địch quân phải bỏ cuộc.

Mặc dù lời tường thuật có méo mó, nhưng cuộc chiến thắng tại Thường Đức và vô số mục tiêu chiếm đọat được trên cao nguyên chứng tỏ cho bộ tư lệnh Cộng Quân là thời điểm đă tới cho một chiến lược mạnh dạn hơn. Tướng Dũng kể tiếp Tham Mưu đă báo cáo như thế nào cho Ủy Ban Quân Sự Trung Ương là khả năng chiến đấu của các lực lượng di động chính giờ đây trội vượt hơn là lực lượng di động chủ lực của địch, là cuộc chiến đă tới giai đoạn chót và cán cân lực lượng ngả về phần thắng lợi cho chúng ta.

Tướng Dũng tin tưởng, và Ủy Ban Quân Sự và Tham Mưu đồng ư, là ưu thế của Cộng Quân cần phải được khai thác theo chiều hướng một chiến lược mới. Cộng Quân sẽ không chỉ c̣n tấn công để diệt QLVNCH nhưng sẽ phối hợp mục tiêu này với các cuộc tấn công để “giải phóng” các vùng đông dân cư. Cộng Quân sẽ di chuyển ra khỏi các rừng núi để tiến xuống đồng ruộng. Các kế hoạch gia Cộng Quân nhận xét là, “Mức độ thuyên giảm viện trợ Hoa Kỳ khiến quân sĩ ngụy không thể thực hiện kế hoạch chiến đấu và tăng cường lực lượng của chúng” và đồng thời quân lính Nam Việt Nam “buộc phải chiếu đấu trong tư thế của một thằng ăn mày,” hỏa lực của họ giảm thiểu “gần 60 phần trăm v́ thiếu hụt bom đạn” và mức di động của họ bị giảm đi “nửa v́ thiếu hụt máy bay, quân xa và xăng nhớt.”

Theo Tướng Dũng, buổi hội thảo của Trung Ương Đảng và Ủy Ban Quân Sự Trung Ương nhóm họp trong tháng 10, duyệt xét các lượng giá và đề nghị của Tham Mưu, và đồng thanh chấp thuậc những điểm sau đây:

1. Ngụy quân càng ngày càng suy yếu về mặt quân sự, chính trị và kinh tế, và các lực lượng của ta mạnh hơn địch quân tại miền nam.

2. Hoa Kỳ đang gặp nhiều khó khăn cả trong nước lẫn trên toàn cầu, và tiềm năng viện trợ cho quân ngụy đang suy giảm mau lẹ.

3. Chúng ta đă thiết lập một giây xích yểm trợ hỗ tương, đă kiện toàn các lực lượng trừ bị và quân cụ và cải tiến đều đặn các hệ thống chiến lược và chính trị.

4. Phong trào đ̣i hỏi ḥa b́nh, cải tiến dân sinh, dân chủ, độc lập quốc gia và việc lật đổ Thiệu tại nhiều đô thị đang tiến hành mạnh mẽ.

Sau khi đă lượng giá khả năng của chính họ và của QLVNCH, và sau khi kết luận là thời gian đă chín mùi cho một cuộc tấn công cuối cùng, các hội thảo viên cần xét xem Hoa Kỳ sẽ phản ứng ra sao. Họ kết luận:

Sau khi kư kết hiệp định Ba Lê về Việt Nam và triệt thoái quân lính Hoa Kỳ khỏi Việt Nam, Hoa Kỳ đă gặp nhiều khó khăn và lúng túng hơn nữa. Các mâu thuẫn nội bộ trong chính phủ Hoa Kỳ và giữa các đảng phái chính trị Hoa Kỳ đă gia tăng. Vụ bêu xấu Watergate đă tạo ảnh hưởng tai hại cho toàn nước Hoa Kỳ và khiến một tổng thống rất phản động phải từ chức – ông Nixon. Hoa Kỳ đương đầu với suy thoái kinh tế, lạm phát gia tăng, thất nghiệp trầm trọng và khủng hoảng dầu hỏa. Hơn nữa, các đồng minh của Hoa Kỳ không thuận hảo với Hoa Kỳ, và các quốc gia từng lệ thuộc vào Hoa Kỳ cũng t́m cách thoát khỏi vơng kiểm soát của Hoa Kỳ. Viện trợ Hoa Kỳ cho chính phủ ngụy Sài G̣n giảm xuống.

Đồng chí Lê Duẫn vạch ra một kết luận quan trọng trở thành một quyết nghị: Một khi đă rút ra khỏi miền nam, Hoa Kỳ khó mà nhảy vào lại, và bất luận có can thiệp cách nào đi nữa, Hoa Kỳ sẽ không thể cứu vớt chính phủ Sài G̣n khỏi xụp đổ. Phước Long trở nên chiến trường cho trắc nghiệm đầu tiên của lượng giá này.

Phước Long - Sự Sắp Đặt

Mùa hè và mùa thu của năm 1974 tại Vùng 3 Chiến Thuật trong Nam Việt Nam là những thời kỳ khó khăn.Tuy nhiên, không như các tổn thất tại Vùng 1 và Vùng 2 CT, rất ít đất đai quan trọng bị mất trong cuộc tấn công mùa hè của Cộng Quân. Các cuộc chiến cấp sư đoàn tại B́nh Dương, Tây Ninh, và Biên Ḥa đă gây nên cả ngàn thương vong, nhưng tất cả các vị trí - ngoại trừ tại ven biên Tây Ninh-Căm Bốt – đă được các chiến sĩ QLVNCH lấy lại. Cuộc hành quân càn quét trong Tam Giác Sắt chỉ đến ngày 24 tháng 11 mới hoàn tất, ngày hôm trước của giai đoạn kế tiếp của cuộc tấn công Cộng Quân, bước tiến quan trọng nhất trước cuộc tấn công chung cuộc của năm 1975.

V́ lẽ Tỉnh Phước Long nằm ngoài xa khỏi tầm pḥng thủ của Sài G̣n, tính chất quan trọng của nó đối với Nam Việt Nam về mặt chính trị hết sức hệ trọng để chính phủ có thể tiếp tục tuyên bố là vẫn c̣ng làm chủ hết tất cả mọi thủ phủ tỉnh lỵ. Mặt khác, sự hiện diện của các căn cứ QLVNCH sâu trong vùng Cộng Quân kiểm soát là điều tai hại đối với địch quân. Một số đơn vị tác chiến và tiếp vận và sinh hoạt quan trọng của Trung Ương Cụ Miền Nam (TƯCMN) nằm trong các làng mạc và đồn điền thuộc vùng Bố Đức-Bù Đốp. Bộ Chỉ Huy M-26 TƯCMN, thường là với ba tiểu đoàn thiết giáp, được đặt tại phi trường Bù Đốp chỉ cách các căn cứ QLVNCH tại Sông Bé có 25 cây số. Bộ Chỉ Huy Công binh TƯCMN được đặt tại Bố Đức và duy tŕ ba, hay nhiều hơn, tiểu đoàn sửa chữa đường lộ giữa Lộc Ninh và Bù Già Mập tới phía đông bắc. Các tiểu đoàn pḥng không, các tiểu đoàn chuyển vận, các trung tâm huấn luyện, và các tổ chức hậu cần khác đóng góp vào số lượng lớn về mặt quân số của Cộng Quân, trong gần tầm bắn đại bác hạng trung của Phước B́nh thủ phủ Tỉnh Phước Long. Cộng thêm vào đó bốn đường lộ xâm nhập tiếp vận của Cộng Quân đi xuyên qua Tỉnh Phước Long từ bắc chí nam, ngang qua các căn cứ QLVNCH và tại ngă tư Quốc Lộ 14 tuần tiễu bởi các toán quân Nam Việt Nam.

T́nh h́nh mùa hè tại Phước Long tương đối yên tịnh. Vào tháng 8, một lính địch quân tự nạp ḿnh tại Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu Phước Long và mô tả tin tức t́nh báo do hai toán tuần tiễu Cộng Quân về các căn cứ QLVNCH. Một toán tuần tiễu ḍ thám Sông Bé, toán kia chú tâm vào Quận Đức Phong. V́ không có cuộc tấn công nào xảy ra tiếp sau đó, tỉnh trưởng kết luận là cuộc ḍ thám có lẽ liên quan đến các động tác xâm nhập và tiếp vận. Dù sao đi nữa th́ các đơn vị của Cộng Quân trong vùng không đủ lớn mạnh để gây một mối đe dọa trầm trọng cho Phước Long, mặc dù chúng có thể gây khó dễ cho các vận chuyển của QLVNCH trên các đường lộ chính đến Sông Bé, Quốc Lộc 14 từ Quảng Đức và liên tỉnh lộ giữa Sông Bé và căn cứ hoả lực Bunard. Tuy nhiên, Sư Đoàn 7 BV đă khóa chốt hoàn toàn Quốc Lộ 14 giữa Bunard và Đôn Luân, khiến cho xe cộ đi tới thủ phủ tỉnh lỵ phải đi ṿng qua Quảng Đức. V́ Sư Đoàn 7 BV cũng cắt Quốc Lộ 1A phía nam Đôn Luân, nên Đôn Luân chỉ được tiếp tế bằng trực thăng.

Cộng Quân cấm cản Quốc Lộ 14 phía đông Phước B́nh-Sông Bé khá thường xuyên khiến cho QLVNCH buộc phải phát động những cuộc hành quân khai lộ mỗi khi một đoàn xe chở gạo hay quân xa lớn được phái tới Phước Long. Tỉnh đ̣i hỏi khoảng 500 tấn gạo một tháng, phân nửa được sản xuất tại địa phương và do đó phải thường xuyên thiết lập các đoàn xe công voa. Các lực lượng tại Phước Long dự trữ số lượng đạn dược đủ cho một tuần lễ giao tranh nặng, và số lượng này cũng phải được bổ sung thường xuyên. Ngoài quân xa, c̣n có thể dùng phi cơ vận tải C-130 KQVN với phi đạo tại Sông Bé.

Để chuẩn bị cho đoàn xe tiếp tế vào đầu tháng 11 năm 1974, Tiểu Khu Phước Long, chỉ huy bởi Đại Tá Nguyễn Tấn Thành, khởi sự khai thông đường lộ. Để bảo vệ các căn cứ trong khi các tiểu đoàn ĐPQ đang trên quốc lộ, Quân Đoàn III, v́ thiếu trừ bị bộ binh, phái ba đại đội trinh sát tới Phước B́nh và Sông Bé, mỗi đại đội lấy từ ba sư đoàn của quân đoàn. Các lực lượng tại Đức Phong - Tiểu Đoàn 362 ĐPQ, bốn tiểu đội NQ, và một pháo đội 105 ly howitzer – và hai đại đội từ Tiểu Đoàn 304 ĐPQ từ Sống Bé được trải dọc theo Quốc Lộ 14. Trong một cuộc đụng độ ngắn với địch, gần ven biên Quảng Đức, các lực lượng này giết bốn địch quân thuộc Trung Đoàn 201 BV của Sư Đoàn 3 BV tân lập. (Sư Đoàn này, thiết lập tại Phước Long, biệt lập và không dính dấp ǵ với Sư Đoàn 3 BV đang hoạt động tại B́nh Định). Tuy cuộc hành quân QLVNCH có kết quả, sự hiện diện của trung đoàn BV kế cận Đức Phong là một điềm xấu.

Cộng thêm vào các Tiểu Đoàn 340 và 362 ĐPQ đă kể trên, Đại Tá Thành c̣n kiểm soát Tiểu Đoàn 341 ĐPQ tại Đôn Luân và Tiểu Đoàn 363 ĐPQ tại Bunard. Ba mươi bốn Tiểu Đội ĐPQ được phân tán tại các ấp xă và các căn cứ quân sự xung quanh Sông Bé, trong khi 14 tiểu đội ĐPQ bảo vệ tám ấp xă tại Tiểu Khu Đức Phong. Về phía nam Sông Bé tại Tân Bố Đức, nơi các dân di cư bỏ chạy vùng Cộng Quân chiếm đóng ở phía bắc Phước Long trú ngụ, có chín tiểu đội ĐPQ; trong tám ấp xă và các căn cứ quân sự xung quanh Đôn Luân, cũng có chín tiểu đội ĐPQ. Yểm trợ pháo binh được cung ứng bởi bốn khẩu 155 ly và 16 khẩu 105 ly howitzer, dùng trong hai tiểu đội, mỗi tiểu đội gồm hai khẩu khắp cùng tiểu khu. Các tiểu đoàn ĐPQ có khoảng 340 người - khoảng 85 phần trăm quân số - nhưng các tiểu đoàn ĐPQ rất thiếu hụt về quân số.

Nghi Binh

Vào cuối tháng 11 và đầu tháng 12, t́nh h́nh tại Tỉnh Phước Long tương đối yên tịnh, và chú tâm của tư lệnh Quân Đoàn III phân chia giữa hai cạnh sườn đông và tây. Ông không mấy quan tấm tới t́nh h́nh tại các vùng cực bắc. Các tiền đồn xung quanh An Lộc trong Tỉnh B́nh Long thỉnh thoảng bị địch tấn công bằng hỏa lực nhưng không bị nguy khốn, mặc dù tiếp vận là một vấn đề liên lỉ v́ hỏa lực của súng pḥng không địch. Ngày 5 tháng 12, một hỏa tiễn SA-7 bắn rớt một trực thăng CH-47 chín cây số phía nam An Lộc, giết chết 15 hành khách và nhân viên phi hành đoàn.

Các mối đe dọa chính của địch xuất hiện trong Tỉnh Tây Ninh tại phía tây và trong Long Khánh và B́nh Tuy tại phía đông. Một cuộc đụng độ nhỏ tại phía đông bắc Xuân Lộc vào cuối tháng 11 bắt gặp một tài liệu cho biết các kế hoạch địch quân sẽ tấn công Gia Rai và triệt hủy các tiền đồn QLVNCH dọc theo Quốc Lộ 333 phía bắc đi vào Tỉnh B́nh Tuy. Trung Đoàn 812 BV yểm trợ cho các cuộc tấn công trong Tỉnh B́nh Tuy.

Trong khi mối đe dọa ở phía cạnh sườn đông đang chớm nở th́ chiến trận tiếp diễn mạnh tại Tây Ninh, các hỏa tiễn Cộng Quân rớt vào thủ phủ tỉnh lỵ và vào các căn cứ quân sự kế cận. Tuy một đại đội Địa Phương Quân bảo vệ trạm phát thanh trên đỉnh Núi Bà Đen bắt đầu bị tấn công càng ngày càng thêm mạnh và thường xuyên hơn, nỗ lực chính của Cộng Quân nhắm vào các ấp xă và các tiền đồn ĐPQ dọc theo Quốc Lộ 13 phía đông bắc Thành Phố Tây Ninh. Cộng Quân tấn công vào sáng sớm ngày 7 tháng 12. Vào khoảng trưa, các lực lượng thuộc Trung Đoàn 205 Biệt Lập BV xâm nhập vào các xă ấp, mặc dù đồn ĐPQ tại Suối Đá đứng vững. Các tiểu đoàn 8 và 9 thuộc Trung Đoàn 205 BV nằm tại Quốc Lộ 13 phía tây nam Suối Đá, và các Tiểu Đoàn Tây Ninh D-14 và D-16 BV cản ngăn các nỗ lực tiếp viện của QLVNCH. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 7 thuộc Trung Đoàn 205 BV t́m cách tràn ngập Suối Đá, bị mất trên 100 trong số chiến binh. Tiểu Đoàn ĐPQ QLVNCH bảo vệ Suối Đá bắt được hai chiến binh Cộng Quân và xác định danh hiệu của Trung Đoàn 205 BV trong cuộc tấn công, và một toán tuần tiễu ĐPQ phục kích và tịch thâu một khẩu súng dă chiến 100 ly Sô Viết. Trung Đoàn 46 QLVNCH đưa một đoàn quân tiếp cứu lên Quốc Lộ 13 từ Thành Phố Tây Ninh, không được thành công. Bị phục kích ngày 12 tháng 12 khoảng ba cây số trước khi tới Suối Đá, trung đoàn này thiệt hại nặng về nhân sự.

Đang khi giao tranh dữ dằn xảy ra xung quanh Núi Bà Đen, đại đội ĐPQ bồm 80 người ở trên đỉnh chống trả nhiều cuộc xung phong liên tiếp. Tiếp vận và tản thương bằng trực thăng không c̣n thực hiện được nữa, và mặc dù đại đội trưởng báo cáo là có đủ lương thực và đạn dược, nước đă trở nên rất khan hiếm và một số lớn thương bịnh nặng cần được di tản gấp.

B́nh Tuy-Long Khánh

Tổng Tham Mưu Trưởng QLVNCH và tư lệnh Quân Đoàn III được báo cáo đầy đủ trước về các cuộc tấn công của Cộng Quân sắp sửa xảy đến tại Long Khánh và B́nh Tuy. Họ biết là Trung Đoàn 33 BV dự tính tấn công Quận Hoài Đức trong Tỉnh B́nh Tuy và Trung Đoàn 812 BV tân lập gồm các tiểu đoàn từ Lâm Đồng kế cận, sẽ tấn công vào Quận Tánh Linh. Hơn nữa, họ ước tính đúng là Trung Đoàn 274 BV sẽ tham dự vào cuộc tấn công. Một bộ tư lệnh sư đoàn BV mới được thành lập để điều khiển cuộc hành quân. Không đủ tin tức về danh xưng của sư đoàn này, QLVNCH gọi nhóm địch quân mới này là Sư Đoàn 7 CT, dựa vào vùng quân sự trong đó sư đoàn này hành quân. Sau này, sư đoàn được nhận diện là Sư Đoàn 6 BV, gồm ba trung đoàn nêu trên, cộng thêm các đơn vị yểm trợ và dịch vụ thông lệ của các sư đoàn BV.

Không có đơn vị QLVNCH tại Tỉnh B́nh tuy khi cuộc tấn công của Cộng Quân khai diễn. Các đại đội địa phương quân được phân phối ra tại các làng mạc chính, và các đơn vị địa phương quân nhỏ hơn canh giữ các cầu và trạm kiểm soát dọc theo các Quốc Lộ 333 và 335, những địa đạo khả dụng được thuộc Hoài Đức và Tánh Linh để giao dịch với bên ngoài tỉnh lỵ. Nhóm dân cư ít ỏi của tỉnh lỵ được tập trung tại các làng mạc dọc theo hai con đường lộ nương tựa theo đường cong của Sông La Ngà. Bắt đầu từ rạng núi cao 5 ngàn foot ngó xuống rừng rậm phẳng ĺ của B́nh Tuy phía đông bắc của tứ giác, Sông La Ngà chảy qua khu vượng lúa của tỉnh lỵ. Hai thủ phủ của quận, Tánh Linh phía đông và Hoài Đức phía tây, đều có phi trường riêng. Một làng mạc khá lớn khác trong Tỉnh là Vơ Xứ, nằm khoảng chính giữa hai làng kia.

Trung Đoàn 812 BV tấn công tại Tánh Linh ngày 8 tháng 12. Với sự yểm trợ của Tiểu Đoàn 130 Pháo Binh, một tiểu đoàn đặc công và ba tiểu đoàn bộ binh tấn công tiểu khu, vị trí pháo binh trên đồi ngó xuống thành, và các làng mạc giữa Tánh Linh và Vơ Xứ. Vào khoảng ngày hôm sau, Trung Đoàn BV chiếm đoạt được hai khẩu đại bác 155 ly howitzer tại Tánh Linh, chế ngự các làng mạc xung quanh, và án ngữ đoạn đường giữa Vơ Xứ và Tánh Linh.

Quân Đoàn III QLVNCH ra lệnh Sư Đoàn 18, được tăng cường bởi Liên Đoàn 7 BĐQ, từ Xuân Lộc tới Tỉnh B́nh Tuy trợ lực cho địa phương quân. Khi Tiểu Đoàn 32 BĐQ lọt vào ổ phục kích dọc theo Quốc Lộ 333 và hứng chịu tổn thất nặng về nhân mạng, rơ rang là Trung Đoàn 33 BV không muốn cuộc tiếp viện cho B́nh Tuy được thực hiện một cách dễ dàng. Tiếp sau đó, các Tiểu Đoàn 1 và 2 thuộc Trung Đoàn 48 QLVNCH của Sư Đoàn 18 tiếp tay vào cuộc tấn công dọc theo Quốc Lộ 333 và một cuộc giao tranh dữ dằn xảy ra tại phía bắc Gia Rai. Qua các ngày kế tiếp, Tiểu Đoàn 85 BĐQ kết hợp thành một chiến đoàn với bốn tiểu đoàn để tấn lên Quốc Lộ 333, nhưng phần tử dẫn đầu – BĐQ – không thọc qua được quá Gia Huỳnh, cách Hoài Đức 16 cây số về phía nam. Trung Đoàn 33 BV chống cản dọc theo đường lộ, yểm trợ bởi pháo binh và súng cối.

Ngày 17 tháng 12, Làng Duy Cần, giữa Vơ Xứ và Tánh Linh, bị tràn ngập bởi Trung Đoàn 812 BV, và một số người sống sót thuộc Đại Đội 100 ĐPQ phá được ṿng vây để tiến vào Tánh Linh. Mặc dù các tiền đồn cũng như Tánh Linh và Hoài Đức, vẫn nằm trong tay QLVNCH, và bị gây khốn bởi hỏa lực gián tiếp mănh liệt, Tướng Đống, tư lệnh Quân Đoàn III ra lệnh Sư Đoàn 18 không được tiến quân quá Gia Huỳnh trên Quốc Lộ 333. Với Vùng 3 CT bị tấn công từ Tây Ninh đến Phước Long, Tướng Đống không muốn khiến cho bốn tiểu đoàn của ông bị cắt đứt và đánh tan. Trong khi đó, Cộng Quân phá nổ một chiếc cầu phía nam Hoài Đức, chiếm cứ Vơ Xứ, và tăng cường cuộc tấn công vào Tánh Linh. Tiếp sau trận địa pháo với 3.000 trái đạn ngày 23 và 24 tháng 12, Cộng Quân phát động năm cuộc xung phong thành công, để rồi cuối cùng tràn ngập các vị trí pḥng thủ cuối cùng của Tánh Linh vào ngày lễ Giáng Sinh. Trong khi đó, Hoài Đức bị Trung Đoàn 274 thuộc Sư Đoàn 6 BV tấn công.

Sau khi Trung Đoàn 274 xâm nhập vào các vị trí pḥng thủ địa phương của Hoài Đức và nắm lấy các ven mạn đông bắc và tây nam của tỉnh thành, Sư Đoàn 18 QLVNCH di chuyển Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 43 bằng trực thăng tới phía tây và Tiểu Đoàn 2 tới phía bắc của tỉnh thành, và khởi sự đẩy địch quân ra ngoài. Trong khi hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 48 QLVNCH giữ vững vị trí trên Quốc Lộ 333 phía bắc Gia Rai, Liên Đoàn 7 BĐQ được rút ra khỏi Tỉnh B́nh Dương để dưỡng sức và tái trang bị. V́ đă tận dụng tất cả các tiểu đoàn của Sư Đoàn 18, Bộ TTM di chuyển Liên Đoàn 4 BĐQ từ Kontum tới Long B́nh nơi họ được cho nghỉ ngơi và tái trang bị và được đặt dưới quyền Tướng Đống như một lực lượng trừ bị.

Tây Ninh

Cộng Quân tiếp tục các cuộc xung phong lên Núi Bà Đen trong Tỉnh Tây Ninh qua trọng tháng 12 năm 1974, nhưng Đại Đội ĐPQ bé nhỏ và ĺ lợm đứng vững. Trong khi đó, khoảng giữa tháng, một toán quân tiếp viện QLVNCH tới được Suối Đá và khám phá là lực lượng địch quân đă triệt thoái. Các cuộc tiếp tế bằng trực thăng của KQVN cho chiến sĩ trên núi đều thất bại. Các trực thăng bị hỏa lực mạnh đẩy lui, và các chiến đấu phóng pháo cơ bị giới hạn trên tầng cao bởi pháo binh pḥng không SA-7. Cuối cùng, không lương thực và nước uống và gần cạn đạn dược, Đại Đội 3 thuộc Tiểu Đoàn 314 ĐPQ thu vén thương binh và rút xuống núi trở vế tuyến pḥng bạn ngày 6 tháng giêng năm 1975.

Những Ngày Chót của Phước Long

Quân Đoàn 301 BV thực hiện một chiến dịch nhằm vào Tỉnh Phước Long, xử dụng tới Sư Đoàn 3 BV tân lập, Sư Đoàn 7 BV, đă có mặt tại phía tây trong Tỉnh B́nh Dương, một tiểu đoàn thiết giáp từ Trung Ương Cục Miền Nam, một trung đoàn pháo binh và pḥng không, và nhiều đơn vị đặc công và bộ binh địa phương. Đây là một lực lượng đáng nể được tập trung để chống lại bốn tiểu đoàn QLVNCH và tiểu đội ĐPQ thưa thớt. Các trại quân lần lượt bị tấn công và tràn ngập. Cú đấm đầu tiên nhắm vào Đôn Luân ngày 13 tháng 12 năm 1974. Ngày 14 tháng 12, các cuộc xung phong đồng loạt tấn kích vào và mau chóng tràn ngập các Tiểu Khu Đức Phong và Tân Bố Đức trong khi vị trí pḥng thủ Đôn Luân đứng vững. Cuộc xung phong kế tiếp nhắm vào Bunard, cùng với hai tiểu đội đại bác 105 ly howitzer. Địch quân bị tổn thất nặng tại Tân Bố Đức, nhưng là các đơn vị BV địa phương, chứ không phải chủ lực quân. Tuy vậy, pháo binh BV gây thiệt hại cho hai ổ pháo 105 ly howitzer của Tân Bố Đức trước khi cuộc phản công của Tiểu Khu Phước Long lấy lại Tân Bố Đức ngày 16 tháng 12. Mặc dù Tiểu Khu Phước B́nh, gần bên bộ chỉ huy tỉnh, cũng bị tấn công bởi đạn pháo, các vị trí trong lúc này coi bộ c̣n vững mạnh. Ba đại đội trinh sát QLVNCH, trước được tung vào để yểm trợ cho cuộc hành quân khai lộ trong tháng 11, tăng cường cho cuộc pḥng thủ của Tiểu Đoàn 230 ĐOQ, và KQVN chuyển vận sáu khẩu 105 ly howitzer, đạn dược và các tiếp liệu khác vào phi trường Sông Bé, đồng thời tải thương thường dân và binh sĩ. Nhưng Cộng Quân không cho t́nh trạng này tiếp diễn. Hỏa lực pháo binh ngày 21-22 tháng 12 gây hư hỏng nặng cho một C-130 khi vừa đáp xuống và phá hủy một chiếc khác. Trong khi đó, Sư Đoàn 3 BV phát động một cuộc tấn công mănh liệt và chiếm cứ Tân Bố Đức một lần chót.

Trong khi cuộc chiến tiếp diễn dữ dằn xung quanh Sông Bé và Tân Bố Đức, Tiểu Đoàn 341 ĐPQ tiếp tục đẩy lui các cuộc xung phong liên tiếp vào các vị trí tại Đôn Luân. Tiểu đoàn mất phi đạo ngày 17 tháng 12 nhưng phản công và lấy lại được ngay. Tuy nhiên về phía bắc, các vị trí vẫn c̣n trong tay QLVNCH là phi đạo Sông Bé, Phước B́nh, và mỏm Núi Bà Đen nh́n bao quanh toàn vùng.

Cuộc khủng hoảng tại Phước Long, áp lực mạnh của địch tại Tây Ninh, và các cuộc tấn công tại B́nh Tuy không tạo cho Tướng Đông bao nhiêu lựa chọn. Ông phải chận đứng các cuốc tiến quân của địch quân về Tây Ninh và phải giữ vững B́nh Tuy. Mặt khác, ông biết rơ là thiệt hại về mặt chính trị và tâm lư sẽ tiếp sau sự thất thủ của Phước Long. V́ phải tăng cường cho phía bắc, ông ra lệnh cho Sư Đoàn 5 QLVNCH phái Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 4 bằng trực thăng từ Lai Khê đến Sông Bé.

Ngày 23 tháng 12, đang khi Tiểu Đoàn 2 tới Sông Bé, Tướng Đống nói với Trung Tướng Đặng Văn Quang, Cố Vấn Anh Ninh Quốc Gia của Tổng Thống Thiệu, là Quân Đoàn III cần ít nhất một phần của Sư Đoàn Dù từ Vùng 1 CT để cứu vớt Phước Long. Được tŕnh về lời yêu cầu này, Tổng Thống Thiệu bác bỏ, nói rằng Sư Đoàn Dù không khả dụng và hơn nữa sẽ không chuyển vận về kịp. Tướng Đống sẽ được ưu tiên tiếp nhận yểm trợ về không quân và tiếp vận, nhưng ông buộc phải xoay xở với các đơn vị hiện có trong tay mà thôi.

Ngày 26 tháng 12 càng có thêm tin đen tối đến với Bộ TTM và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III. Sau một cuộc chuẩn bị bằng 1.000 đạn pháo, Sư Đoàn 7 BV, trợ giúp bởi các cuộc tấn công nghi binh nhắm vào các vị trí QLVNCH trong và quanh Phú giáo, rốt cuộc tràn ngập Đôn Luân.

Trong khi đó, dân di cư đổ xô vào Sông Bé, và QLVNCH cố gắng tiếp tế cho trại quân bị cô lập. Nhiều chuyến thả dù tiếp liệu đă được thực hiện trong đầu tháng giêng năm 1975, nhưng không có lần nào quân trú pḥng thu lượm được các kiện hàng. Ít nhất 16 xe tăng địch được tung vào trước các cuộc tấn công, nhưng ngày 6 tháng giêng, thêm 10 xe tăng được phát giác tiến gần tới thành thị. Ngày hôm đó, Tướng Đống phái hai đại đội chiến binh tinh nhuệ nhất của ông vào trận chiến: Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù, gồm những quân lính t́nh nguyện thường được dùng vào các cuộc hành quân cảm tử. Cùng trong ngày 6 tháng giêng, không ảnh RF-S của KQVN phát giác bảy vị trí pḥng không 37 ly quanh thành thi. Lúc đó mới chỉ là tuần đầu của tháng giêng và số giờ bay ấn định cho RF-S cho tháng đă gần hết.

Rất ít bộ binh tham dự vào các cuộc xung phong vào Sông Bé. Thay vào đó, các toán đặc công tiến theo sau các xe tăng lăn trên các ngă đường bắn xả vào các vị trí QLVNCH. Các đặc công tiến sau xe tăng rồi càn quét các vị trí và thiết lập các cứ điểm. Hầu hết các xe tăng Cộng Quân bị hư hại hay phá hủy bởi các súng M-72 LAW hay 90 ly không giựt. Rất nhiều khi tầm bắn quá ngắn khiến các hỏa tiễn LAW không tự lên đạn được và bật ra khỏi các thân xe tăng mà không gây thiệt hại ǵ. Diệt xe tăng càng thêm khó khăn v́ Liên Đoàn M-26 Thiết Giáp BV đă hàn gắn thêm các mặt thép vào sườn xe tăng, và các thiết giáp binh khóa chốt các nắp đậy khiến cho không thả lựu đạn vào thân xe tăng được. Pháo binh BV rất tàn phá, đặc biệt là sau ngày 3 tháng giêng khi mức độ hỏa lực tăng lên từ khoảng 200 quả một ngày tới gần 3.000. Các ṭa nhà, các hầm hộ các địa đạo xập đổ, và tổn thất lên cao. Pháo binh QLVNCH bị loại khỏi ṿng chiến, các khẩu đại bác bị phá hủy bởi hỏa lực của xe tăng, súng không giựt và súng 130 ly. Sau cùng, ngày 6 tháng giêng, tỉnh trưởng nhận thức được sự bất lực của ḿnh trong cuộc giao tranh. Không pháo yểm và với hệ thống giao thông tan ră, dưới hỏa lực trực tiếp của bốn xe tăng T-54 đang lù lù tiến tới, ông với vết thương ngặt nghèo cùng phần sót lại của ban tham mưu, triệt thoái khỏi Sông Bé. Cộng Quân chiếm đoạt thủ phủ tỉnh lỵ đầu tiên từ khi ngưng bắn.

Có một số quân nhân và thường dân sống sót từ Sông Bé. Các nhóm nhỏ người Thượng lê lết trong rừng rậm hướng về Quảng Đức, và các trực thăng KQVN cứu vớt khoảng 200 người thuộc Biệt Động Quân, Trung Đoàn 7 và tiểu khu địa phương trong những ngày tiếp sau cuộc sụp đổ. Tỉnh trưởng không thoát được. Vết thương đă làm chậm bước tiến của ông và ông bị mất tích. Một ít phần tử của nhóm chỉ huy tới được các tiền đồn QLVNCH tại Bù Binh trên Quốc Lộ 14 trong Tỉnh Quảng Đức. Sự mất mát của QLVNCH quả là ghê gớm. Trên 5.400 sĩ quan và binh sĩ của Trung Đoàn 5, Biệt Cách Dù và địa phương quân được tung vào trận chiến; không tới 850 sống sót. Tiểu Đoàn Biệt Cách Dù bị thiệt hại nhất – 85 chiến sĩ sống sót – và trong Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn 7, không tới 200 người trở về từ Phước Long. Khoảng 3.000 thường dân, người thượng và Việt, trong số 30.000 hay hơn, thoát khỏi tay Cộng Sản. Một ít công chức cấp tỉnh, quận và ấp bị bắt và bị hành quyết.

Mặc dù tới mùa nắng khô, gió mùa từ đông bắc đổ mưa giông xuống trên đường phố Sài G̣n. Viên tài xế của tác giả nhận xét một cách thiểu năo là ngay cả thần thánh cũng đang khóc cho số phận Phước Long.

Ghi chú về nguồn tham khảo

Các lời trích của Tướng Dũng được lấy từ “Foreign Broadcast Information Service.”

Các nguồn chính về tin tức hành quân và t́nh báo xuất xứ từ sĩ quan liên lạc viên DAO tại Biên Ḥa tiếp xúc thường nhật với bộ tư lệnh Quân Đoàn III, nhất là với Đại Tá Lê Đạt Công, Pḥng 2. Các bản báo cáo này đầy đủ, đáng tin cậy, và chính xác nhất.

Tác giả thường thăm viếng Biên Ḥa, và các ghi chép riêng được dùng trong chương này. Các bản báo cáo hàng tuần và hàng ngày của DAO và Pḥng 2/BTTM là nhừng nguồn tham khảo quan trọng, cũng như các bản báo cáo của Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ.

Đại Tá William E. Le Gro
US Army Center of Military History - CMH Pub 90-29 – 1985

* Trận Chiến Căm Bốt
* Hai Mặt Trận tại B́nh Dương
* Lễ Giáng Sinh Cuối Cùng: Phước Long
* Canh Tàn tại Nam Việt Nam

generalhieu.com