Đáng lư ra tôi phải gọi ông Trần Phương Quế bằng cậu, v́ ông ấy là em nuôi của mẹ tôi. Nhưng từ sau ngày biết tin bố tôi và hai ông chú ruột của tôi đă bị Việt-Minh chặt đầu, trôi sông, th́ tôi đổi cách xưng hô, gọi cậu Quế bằng chú, chú cháu gần gũi hơn, "Thấy chú như thấy cha..." Chú Quế thương tôi như con. Chú vẫn gọi tôi là con, mỗi khi truyện tṛ. Những lúc đi xa, chú thường căn dặn tôi nhớ chăm học và ngoan ngoăn, mai mốt lớn lên thành người, trả thù nhà.
Mùa Thu năm 1948, mẹ con tôi ở chung nhà với bà ngoại tôi và vợ
chồng người anh ruột của mẹ tôi nằm cách Ngă Sáu, Hải-Dương chừng
trăm thước. Hàng ngày, xe cộ chạy trên đường số 5 nối liền Hà-Nội với Hải-Pḥng đều phải ngừng ở Ngă Sáu, chờ mở đường, rà ḿn. Công voa từ Hà -Nội xuống, và từ Hải-Pḥng lên, sau khi họp thành đoàn sẽ có thiết giáp hộ tống để di chuyển về hai hướng ngược xuôi. Nhiều khi Quốc lộ 5 bị Việt-Minh đắp mô, hoặc có giao tranh, đoàn xe phải nghỉ lại đây một vài hôm. Những dịp này, hành khách nườm nượp đi qua trước nhà tôi để về Chợ Tây kiếm cơm, bún, phở, ḿ dằn bụng. Tôi ngồi bên cửa sổ căn gác thượng, chong mắt quan sát những chiếc xe hơi chở khách hiệu Renault, Citroẽn hay Peugeot rồi tự lựa cho ḿnh, cái xe nào ḿnh thích, để khi lớn lên ḿnh sẽ tậu nó mà đi ngao du. Thời gian này, chú Quế và ba người bạn đồng trang lứa, tuổi đôi mươi, chiếm cứ một căn nhà ngay góc đường đi vào Đề Lao Hải-Dương (nhà tù), trên con phố đối diện nhà tôi. Nhóm trai trẻ này làm nghề thông ngôn cho Tây trên ṭa hành chánh. Giữa năm 1949 bốn người thanh niên ấy đă t́nh nguyện theo học lớp Hạ Sĩ Quan Liên Hiệp Pháp ở Trung Tâm Huấn Luyện Mao-Điền, Hưng- Yên. Sáu tháng sau, măn khóa, ba người kia theo binh chủng ǵ tôi không hay, riêng chú Quế trở thành một Trung sĩ Thiết Giáp của Quân Đội Liên-Hiệp-Pháp trú đóng trong vùng thị xă Nam-Định, quê của chú.
Cuối năm 1950 chú Quế cưới vợ. Chú dẫn cô vợ trẻ lên thăm mẹ con
tôi. Lúc này gia đ́nh tôi ở thuê trên lầu căn nhà số 17 phố Hàng
Lọng. Căn nhà này của ông Triệu. Ông Triệu có hai vợ, ông ta làm
Bang tá (?) ở Huyện Gia-Lộc, tỉnh Hải-Dương.
Mẹ tôi lớn hơn vợ chú Quế (cô Trần Thị Dậu) một giáp. Mẹ tôi nhuộm
răng đen, thím Quế để răng trắng. Nhưng mẹ tôi và thím Quế rất hợp
nhau. Hai người kết nghĩa chị em. Hai chị em rủ nhau đi tiệm chụp
ảnh chung. Những bức ảnh của hai nữ nhân Bắc-Kỳ thời 1950, đầu vấn
khăn nhung đen, cổ đeo kiềng vàng, cổ tay có đôi xuyến, ngón tay có
nhẫn mặt ngọc xanh, đôi hoa tai vàng y nhận hột ngọc óng ánh, áo dài
lụa màu ngà có vân, tay xách bóp đầm, đứng giữa hai chậu cảnh. Trang
phục đó là "mốt" của các bà, các cô Hà-Nội Mới những năm 1949-1950.
Mẹ tôi c̣n cất giữ những cái ảnh này tới ngày bà qua đời.
Bẵng đi một thời gian khá dài, vợ chồng chú Quế lại ghé nhà. Lần này
họ bế theo đứa con gái đầu ḷng ba tháng tuổi. Bé Minh vừa biết lật.
Đi học về, tôi lại bế em và chơi "Cúc! Oà!" với nó; nó thích lắm. Nó
lật trên giường, hai tay quơ lia liạ, hai chân đạp không ngừng,
miệng nó cười như nắc nẻ, nước dăi chảy ḷng tḥng. Đầu năm 1952, nhà tôi di chuyển lên làng Vẽ (Đông-Ngạc) ngoại ô Hà-Nội. Vài năm sau tôi nghe tin chú Quế cùng hai người bạn năm xưa được đề cử theo học lớp sĩ quan hiện dịch ở Đà-Lạt. Hiệp định Genève đưa gia đ́nh tôi vào Tourane (Đà-Nẵng), rồi vào Fai-Foo (Hội-An), chúng tôi không rơ vợ chồng chú Quế phiêu bạt phương nào. Tới năm 1960, mẹ tôi được người quen đưa tin thím Quế vừa mất, bà tất tả vào Quang-Trung , Sài-G̣n thăm gia đ́nh chú. Ngày về mẹ tôi mang theo vài cái ảnh, trong đó có cái ảnh đứa cháu gái của bà chụp trước đó vài năm, h́nh em Lệ Minh mặc áo đầm x̣e đứng trong sân chơi của trường Thánh Mẫu. Thím Quế mất đi, chú tôi trở thành gà trống nuôi bốn đứa con, hai trai, hai gái. Năm sau, chú tôi tục huyền với cô Cao Thị Thêm. Cô Thêm là nguời có công chăm sóc các em tôi từ trứng nước, các em tôi cũng thương cô như mẹ ruột. Ít lâu sau, chú Quế bỏ nghề huấn luyện viên Trung Tâm Huấn Luyện Quang-Trung, xin ra tác chiến. Đă có lần chú Quế nói với tôi lư do v́ sao ông t́nh nguyện chuyển ngành sang Lực-Lượng Đặc-Biệt, nhưng tôi quên mất rồi. Năm 1965 tôi đang học năm cuối cùng trong Trường Vơ-Bị th́ gia đ́nh chuyển tiếp cho tôi một lá thư của chú Quế. Chú nói nếu tôi thích Lực- Lượng Đặc-Biệt th́ chú sẽ giúp đỡ cho tôi về binh chủng này khi tốt nghiệp. Tôi không đả động ǵ tới việc này trong lá thư trả lời cho chú. Ngày mẹ tôi báo cho chú hay tin tôi chọn binh chủng Biệt Động Quân chú buồn lắm.
Từ lúc ra trường Vơ-Bị, tôi một chiến trường, chú một chiến trường,
chú với tôi chưa một lần được chung lưng đánh trận nào. Tết năm 1969 cấm trại, nhưng tôi được Trung tá Liên đoàn trưởng Liên Đoàn 2 /BĐQ cho năm ngày phép về thăm nhà bằng Sự Vụ Lệnh. Ngày đó chú Quế đang chỉ huy Tiểu Đoàn 81 Biệt Cách Dù hành quân trên Quế-Sơn, Quảng-Nam. T́nh cờ chú cháu tôi gặp nhau tại nhà mẹ tôi ở Hội-An ; chúng tôi có dịp xả bầu tâm sự. Tôi biết thêm những điều chú cất dấu sâu kín trong ḷng. Hồi trẻ, chú tôi rất "bô" trai, v́ vậy mà nhiều h́nh bóng giai nhân đă đi qua trong đời chú, trong đó có bà cô vợ một thằng bạn cùng quê, cùng khóa 20 VB của tôi. Chú cũng bùi ngùi nhắc tên ái nữ của một nhà văn, sau này cô ấy lấy người bạn của chú, ông ta làm tới Tướng Vùng... Điều kỳ lạ là, trước khi tôi vào Pleiku, th́ chú tôi đă xông pha ngang dọc một thời ở vùng rừng núi này. Ông từng làm trưởng trại Plei M'Rông khá lâu rồi mới thuyên chuyển về Nha-Trang. Tôi tới Tây-Nguyên th́ chú tôi đă đi rồi, không c̣n dịp về qua đây nữa. Nhưng tôi vẫn biết tin tức của ông qua thư từ và qua bạn bè cùng Khóa 20 Vơ Bị phục vụ dưới quyền ông. Tiểu đoàn 81 Biệt Cách Dù của Thiếu Tá Trần Phương Quế đă góp công đánh tan nhiều đơn vị Cộng-Sản vùng Cây-Thị, Cây-Quéo, Tân-Phú -Trung, Củ-Chi, Sài-G̣n trong đợt Tổng Công Kích Mậu-Thân 1968. Rồi ông giữ vai tṛ phụ tá đắc lực cho vị chỉ huy Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù trong thời gian ông đảm nhận chức Liên Đoàn Phó của đơn vị lừng danh này. Cuối cùng, ông là Đại tá Trung đoàn trưởng/Trung đoàn 9/Sư đoàn 5 Bộ Binh, một trong những đơn vị ṇng cốt kỳ cựu của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Ḥa. Tôi chỉ quanh quẩn trên Cao-Nguyên Vùng 2. Chú cháu tôi hiếm có dịp gặp nhau. Có một lần, cuối năm 1970 sau khi thụ huấn khóa "T́nh Báo Tác Chiến" ở Singapore trở về, tôi ghé Sài-G̣n thăm gia đ́nh chú. Hôm đó chú đang cùng đơn vị LĐ 81 BCD dự đợt bồi dưỡng nhảy dù thường niên. Chú giữ tôi ở lại nhà ăn cơm. Ngồi quanh mâm có tôi, chú Quế, hai đứa em con người vợ cũ của chú là em Minh, em Hương, cùng với cô Thêm, vợ sau của chú. Lần đầu tôi được gặp cô Thêm. Cô Thêm cũng là người Bắc, dáng cô cũng hao hao giống thím Dậu. Thấy cô Thêm, tôi chợt nhớ thím tôi, nhớ những ngày xa xưa tôi c̣n bé tí ở Hải-Dương...
Chiến tranh mỗi ngày mỗi khốc liệt hơn, tôi với chú tôi lại tiếp tục
mỗi người một chiến trường. Sau khi Tiểu đoàn 82 BĐQ của tôi thắng
trận Pleime 1974, Đại tá Trần Phương Quế, Trung đoàn trưởng/ Trung
đoàn 9/ Sư Đoàn 5 Bộ Binh đă gửi thư khen tôi, chú viết: "Con giỏi
lắm! Một ngày không xa, con sẽ qua mặt chú. Chú mừng v́ con đă
trưởng thành..."
Chỉ trong ṿng hai tháng sau cùng của cuộc chiến giữ nước, anh em
thuộc Tiểu đoàn 82 BĐQ của cháu đă chết gần hết. Cháu cũng bao lần
thoát chết trong kẽ tóc, đường tơ. Cháu đă làm tất cả những ǵ một
người lính có thể làm, để bảo vệ quê hương.
Cuối năm 1976 sau khi bị cùm v́ tội trốn trại lần thứ nhứt, tôi được
đưa về đội lao động ở Trại 4, Liên trại 4, xă Cẩm-Nhân, Yên-Bái,
Hoàng-Liên-Sơn. Tại đây tôi gặp lại anh bạn LLĐB Phạm Châu Tài. Tôi
hỏi thăm tin tức của Đại tá Trần Phương Quế, anh ta cũng mù tịt.
Ngày quân Tàu đánh Việt-Nam, bốn mươi người tù, toàn là dân vượt
ngục của đội 12 Phú-Sơn 4 bị c̣ng tay từng cặp, hai người một,
chuyển về trại Nam-Hà A, Phủ-Lư. Năm 1985 tù chiến tranh của trại Z30 C được tha gần hết, thay vào là tù h́nh sự. Tôi là một trong số vài chục tên cuối cùng bị chuyển sang Trại Z30D Hàm-Tân vào cuối 1985.
Đầu năm 1988 tôi được tha về với gia đ́nh. Chú Quế là một trong
những người đầu tiên tới nhà thăm tôi. Chú tôi đă được thả về nhân
ngày 2 tháng 9 năm 1987, nhưng ông c̣n đang bị quản chế. Hàng tháng
ông phải ra trụ sở phường khai báo việc làm trong tháng vừa qua.
Những người được tha sau năm 1987 như tôi th́ không bị quản chế.
Từ khi Việt-Cộng chiếm Sài-G̣n, gia đ́nh chú tôi đă thành vô gia cư,
phải dọn về ở nhờ nhà một đứa cháu gọi ông bằng chú.
Ngày 16 tháng 6 năm 1975, khi toán bộ đội Việt-Cộng tới khám xét căn
nhà của Đại Tá Trần Phương Quế th́ giáp mặt một Thiếu úy Địa Phương
Quân Việt-Nam Cộng-Ḥa trẻ tuổi đang chờ tiếp đón họ. Một hôm, từ mỏ vàng Hiếu-Liêm trở về, tôi ghé thăm chú Quế và bà cụ thân sinh của chú. Chú than phiền với tôi rằng người cháu ruột của chú không muốn chứa chấp gia đ́nh chú trong nhà nữa, chú không biết phải dọn đi đâu. Tôi về thưa lại chuyện này với mẹ tôi. Sau đó gia đ́nh chú Quế đă dọn về ở với mẹ tôi bên chợ Rạch Ông cho tới ngày đi Mỹ theo danh sách H15.
Chú tôi có bảy người con. Bốn người là con thím Dậu, ba người là con
cô Thêm. Chú tôi và cô Thêm cùng ba người con của họ định cư tại
tiểu bang Florida, Hoa-Kỳ. Bốn người con thím Dậu th́ một chết (Trần
Phương Tuấn) c̣n lại ba, hiện ở Sài-G̣n.
Thời chiến tranh bảo vệ quê hương, tôi trấn giữ một biên cương rất
xa chiến trường của chiến binh Trần Phương Quế.
Năm 2009 trước khi nhập viện làm Bypass van tim, chú tôi có nói
chuyện với tôi khá lâu trên điện thoại. Sau khi mổ tim, sức khỏe của
ông vẫn b́nh thường. Bất ngờ, ngày 6 tháng Tư 2011 tôi nhận được e
mail của người em rể, chồng của em Lệ Minh báo tin chú tôi mất.
Nghe tin Đại tá Trần Phương Quế qua đời, người cháu của ông ở
Việt-Nam đă tới Ṭa soạn Báo Tuồi Trẻ để nhờ đăng cáo phó thông báo
cho bạn bè thân thuộc của ông biết tin ông mất. Nguồn: Chú Quế Câu chuyện sau đây được viết lại theo lời kể của Đại Tá Trần Phương Quế, nguyên tiểu đoàn trưởng TĐ81/Biệt Cách Nhảy Dù (1968- 1970); sau đó là trung đoàn trưởng Trung Đoàn 9/Sư Đoàn 5/Bộ Binh. Ông bị tù cải tạo mười ba năm và hiện đang cư trú tại tiểu bang Florida, Hoa Kỳ. Nguồn: mythua
|