Cuộc
triệt-thoái ấy đă hoàn-toàn thất-bại, v́
bị địch chận đánh, gây tổn-thất quá
nặng cho [quân và dân] ta, mở đầu cho các
thất-bại khác liên-tiếp suốt từ địa-đầu
Quân-Khu II xuống đến Quân-Khu III. Có thể nói
cuộc triệt-thoái ấy, trong chiến-lược “đầu
bé đít to” mà Tổng-Thống Nguyễn
Văn Thiệu gọi là “tái phối trí”, là bước
nhảy vọt trên đường tan-ră của Quân-Lực
và chế-độ VNCH.
Tôi đọc
một số tài-liệu viết về cuộc
triệt-thoái ấy, th́ thấy có mấy chi-tiết đáng
được lưu-tâm:
A/
Về cuỘc hỌp tẠi Cam Ranh:
1) Theo cựu
Chuẩn-Tướng Trần Văn
Cẩm (qua Vietnam Courier #39
(Tháng 8/1975) do Adam Sadowski chuyển tới Website của
Nguyễn Tín về cố Thiếu-Tướng Nguyễn Văn
Hiếu) th́: “Tướng [Phạm Văn]
Phú đi Cam Ranh
sáng ngày 13/3 để
hội thảo với các ông Thiệu,
Khiêm và Viên. Khi trở về Pleiku
ông triệu tập chúng tôi. Ông bắt đầu buổi
họp bằng trịnh trọng tuyên bố... ”
2) Nhưng theo bài “14.3.1975 Di Tản Cao Nguyên” do SQTB K10B/72 đăng trên Website Thời Chinh Chiến, th́: “sáng ngày 14 tháng 3/1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng TrầnThiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Phụ tá an ninh của Tổng thống đến Cam Ranh để họp với Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh Quân đoàn 2& Quân khu 2...” và “Theo lời ban tham mưu của Tướng [Phạm Văn] Phú kể lại, vào lúc 5 giờ 10 chiều ngày 14 tháng 3/1975, khi vừa từ Cam Ranh trở về, Tướng Phú triệu tập một cuộc họp khẩn cấp...”
(Nhiều
tài-liệu khác đều viết là ngày 14/3/1975.)
B/
Về ngày bẮt
đẦu triỆt-thoái:
1- Theo cựu
Chuẩn-Tướng Trần Văn
Cẩm (kể trên) th́:
“Ngày
N được ấn định vào ngày 16/3...”
2- Theo Website Thời
Chinh Chiến (kể trên) th́: “bắt
đầu từ ngày 16 tháng 3/1975. Ngày 16
tháng 3, đoàn xe đầu tiên
của Quân đoàn 2 khởi hành ra khỏi thị xă Pleiku
như đă trù liệu...”
3-
Nhưng theo Lữ
Giang trong bài “Trận
Đánh Quyết Định”
th́: “Lúc 1 giờ chiều ngày
15.3.1975 cuộc di tản chính thức
bắt đầu...”
(không nói có ǵ xuất-phát
từ Pleiku vào ngày 16.3.1975)
rồi “Ngày 17.3.1975,
Liên Đoàn
7 BĐQ mới từ Sài G̣n ra và Liên Đoàn 23 đă cùng Thiết
Đoàn 21 chiến xa M48 tiến về thị trấn Hậu
Bổn,
kéo theo một đoàn
xe quân sự dài hơn 2.000 chiếc và
gần 2.000 phương tiện giao thông dân sự...”
C/
Về
NgưỜi ChỈ-Huy CuỘc
TriỆt-Thoái:
1. Theo Ban Biên Tập “Lịch Sử Việt” (Editor-in-Chief: Chủ Biên L/S Trịnh Quốc Thiên) trong bài “Cuộc triệt thoái khỏi Cao Nguyên của QĐ2 QLVNCH” th́: “Tướng [Phạm Duy] Tất, Tư Lệnh BĐQ QK2, chỉ huy toàn bộ cuộc triệt thoái...”
2. Theo Lữ
Giang (kể trên) th́: “Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất được trực thăng
tới bốc đi từ trường tiểu học Phú
Bổn, đă chỉ huy ở trên trời, ra lệnh
cho Đại Tá
Nguyễn
Văn Đồng, Tư Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh,
đang chỉ
huy ở dưới đất...”
3. Nhưng theo Đỗ
Sơn
trong cuốn “Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất và sự
thật cuộc triệt thoái Quân Đoàn II” th́: “Tướng Trần
Văn Cẩm làm
Tư Lệnh Tiền Phương. Đại Tá Nguyễn
Văn Đồng Tư
Lệnh Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh Thiết Giáp chỉ
huy cuộc hành quân,
Tướng Phạm
Duy Tất điều
động Biệt Động Quân”.
(Biệt
Động Quân là một thành-phần trong cuộc hành-quân
di-tản, th́ do một chuẩn-tướng điều-động,
trong lúc toàn-thể cuộc hành-quân th́ lại do một
đại-tá chỉ-huy.)
4. Và theo Lữ
Giang trong bài
“Trở Lại
Con Đường số 7 Bi Thảm”
th́: “Vấn
đề trước tiên được Tướng [Phạm
Duy] Tất
xác định là ông không
phải là
“Tổng
Chỉ Huy”
của
cuộc triệt thoái.
Ông cho biết tuy các đài phát thanh và báo chí lúc đó nói
“Tướng Tất đang chỉ huy
cuộc triệt thoái khỏi Tây Nguyên”,
nhưng tại cuộc họp ở Quân Đoàn chưa có
ai nghe đến 3 chữ Tổng Chỉ Huy. Tướng [Phạm
Văn] Phú
chỉ ra lệnh cho ông phải đưa lực lượng
Biệt Động Quân về đến Nha Trang.”
D/
Về
các
Chi-TiẾt ĐẶc-BiỆt:
1/ Theo Lữ
Giang trong bài “Trở
Lại Con Đường số 7 Bi Thảm”
th́: “lúc
20 giờ tối ngày 16.3.1975, Bộ Chỉ Huy Tây Nguyên
của Cộng quân được tin quân đội VNCH
đang rút khỏi Cao Nguyên, liền ra lệnh cho Tiểu
đoàn 9 thuộc Trung Đoàn 64 của Sư Đoàn 320
đang đóng chận đường 14 ở khúc
quận Thuận Mẫn cách tỉnh lỵ Hậu Bổn
khoảng 15 cây số, tiến lên chận đường
đoàn quân của VNCH. Tiểu đoàn này đă giao
chiến với Liên Đoàn 7 ở
đèo Tuna.
Một phi tuần A37 đă được gọi đến
yểm trợ nhưng lại ném bom vào quân của Liên
Đoàn 7 khiến Đại Tá Nguyễn
Kim Tây bị
thương.
Một cuộc
căi lộn đă xảy ra giữa Đại Tá Đồng
và Liên Đoàn 7, sau đó Liên Đoàn 7 biến
mất.
Tướng Tất phải đưa Liên Đoàn 25 từ sau tiến lên cùng
với Thiết Đoàn 21 nhổ chốt đèo
Tuna.
Nhưng Đại Tá Đồng nói với tôi rằng lúc đó địch
quân đă chiếm ưu thế, ḿnh cho chiếc M48 nào lên
chúng bắn cháy chiếc đó. Không
ai chịu tiến lên nữa...”
(Không
thấy nói rơ lí-do hoặc đề-tài của cuộc căi
lộn.)
2/ Cũng
theo Lữ Giang trong bài “Trận
Đánh Quyết Định"
(kể trên) th́: “Liên đoàn
25 BĐQ đang đi tập hậu đă cùng với Liên
Đoàn 7 và thiết giáp tiến lên phá cái chốt
ở đèo Tuna. Nhưng Đại
Tá Nguyễn Văn Đồng cho chúng
tôi biết Biệt Động Quân, thiết giáp và không
quân đă không phá nổi cái chốt đó. Chiếc xe tăng
nào ḅ lên, chúng bắn cháy chiếc đó. Thảm hoạ
xảy ra khi máy bay oanh tạc lầm quân của phe ta. Địch
lại pháo kích dữ dội vào tỉnh lỵ Phú
Bổn, quân và dân chạy tán loạn, nên đoàn quân
tan ră. Không c̣n chỉ huy được, ông
[Nguyễn Văn Đồng] và
một số quân nhân phải lội bộ đi ṿng dưới
chân đèo Tuna để vượt
qua, nhưng rồi cũng đă bị
bắt khi đến gần Củng
Sơn. Đại Tá Đặng
Đ́nh Siêu, Tư Lệnh Phó Lữ Đoàn 2 Kỵ
Binh, theo tàn quân của Liên Đoàn 4 BĐQ chạy băng
rừng và về được đến Phú
Yên...”
3/ Và, theo
cựu Chuẩn-Tướng Trần Văn
Cẩm (kể trên) th́: “và
chúng tôi chỉ biết chắc có duy một điều là
Đại Tá [Nguyễn
Văn]
Đồng, chỉ huy trưởng Thiết Giáp,
đă bỏ chiến xa và đă thất lạc trong
rừng...”
*
Trong bài này, tôi
chỉ chú-trọng đến nhân-vật Đại-Tá Nguyễn Văn Đồng.
Trong hơn 12 năm
bị tù “cải-tạo”, tôi đă có một thời-gian nằm
cạnh anh Nguyễn
Văn Đồng
trong một buồng giam tại Trại Tiên-Lănh thuộc Huyện Tiên-Phước, Tỉnh Quảng-Nam.
Lúc đầu, có
một số cựu sĩ-quan thắc-mắc tại sao người
chỉ-huy Lữ-Đoàn Kỵ-Binh
Thiết-Giáp
lại được gọi là Tư-Lệnh,
trong lúc người chỉ-huy các Lữ-Đoàn
binh-chủng khác th́ chỉ được gọi là
Lữ-Đoàn-Trưởng, và ngay cả người
chỉ-huy toàn-thể lực-lượng Kỵ-Binh
Thiết-Giáp toàn-quốc (trên các Lữ-Đoàn) cũng không
được gọi là Tư-Lệnh?
Anh Nguyễn
Văn Đồng
đă giải-thích rơ-ràng, chứng-tỏ anh
thực-sự là Tư-Lệnh Lữ-Đoàn II Kỵ-Binh
Thiết-Giáp
(được đặt thuộc quyền sử-dụng
của Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II).
Nhưng có một
điều mà số cựu sĩ-quan đồng-tù “cải-tạo” ấy không đề-cập
thẳng với anh: họ nói riêng với nhau rằng Nguyễn Văn Đồng, Tư-Lệnh Lữ-Đoàn II
Kỵ-Binh Thiết-Giáp đă đầu-hàng địch tại
trận, chứ không phải là bị địch bắt.
Họ nói rằng anh có một người em ở bên phía
địch: đó là Thượng Tá VC Nguyễn Văn Căn.
Tôi suy-nghĩ
nhiều. Tuy-nhiên, dù là cùng nằm cạnh nhau,
chuyện-tṛ thân-mật với nhau, song v́ tế-nhị nên
tôi không đả-động ǵ đến chuyện đó
cả.
Biến-cố
Trung-Tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Phó Tư-Lệnh Quân-Đoàn III, và
Chuẩn-Tướng Phạm
Ngọc Sang,
Tư-Lệnh Sư-Đoàn 6 Không-Quân, bị địch bắt tại Phan Rang, xảy ra sau cuộc
triệt-thoái của Quân-Đoàn II, đă được
đối-phương loan tin khắp nơi, trong Trại
chúng tôi có nghe. Nhưng vụ “Đại-Tá Nguyễn Văn Đồng, Tư-Lệnh Lữ-Đoàn II
Kỵ-Binh Thiết-Giáp, đầu
hàng địch tại trận”
– là việc xảy ra trước đó, và đối
với địch th́ có giá-trị cao hơn về
mặt tâm-lư/tinh-thần/chính-trị/
Trước tiên, anh Nguyễn
Văn Đồng
nói với tôi:
– Tôi
đă có định đưa qua Cảnh-Sát một
số đàn-em của tôi.
Tôi hỏi
lại anh:
–
Đưa qua Cảnh-Sát làm ǵ? 3
Ngập-ngừng
một lát rồi anh trả lời:
–
Dù sao th́ qua Cảnh-Sát cũng đỡ khổ hơn,
chứ ở Thiết-Giáp khổ quá, anh ơi.
–
Tôi không bàn về môi-trường/hoàn-cảnh hoạt-động.
Tôi hỏi anh về mục-đích công-tác, hai bên
giống nhau/khác nhau thế nào, tại sao chuyển-đổi
ngành/nghề?
Câu hỏi của tôi
là một chủ-đề “hắc-búa”. Nói chung th́ ai cũng
v́ Tổ-Quốc, v́ Đồng-Bào, “chống Cộng
cứu Nước”, bảo-vệ chế-độ, tuân-phục
thượng-cấp/chính-quyền... Nhưng vào chi-tiết
th́ hai chúng tôi đă cứ phản qua, bác lại – vui-đùa
chứ không phải là nghiêm-nghị – một cách
giải-khuây để cho qua ngày trong suốt thời-gian
gần nhau.
V́ Bộ Tư-Lệnh
Lữ-Đoàn II Kỵ-Binh Thiết-Giáp của anh Nguyễn
Văn Đồng đóng tại Pleiku,
bên cạnh Bộ Tư-Lệnh Quân-Đoàn II, mà
trụ-sở CSQG và văn-pḥng Cảnh-Sát Đặc-Biệt
Vùng II của tôi cũng có nhiều năm đặt
tại thành-phố đó, nhất là giai-đoạn VC
tấn-công dịp Tết Mậu-Thân 1968,
nên chúng tôi đă dựa nhiều vào không-gian và
thời-gian ấy, như bối-cảnh, trong lúc
chuyện-tṛ. Tóm lại, tuy không nhớ đúng từng câu,
từng chữ, nhưng tôi vẫn c̣n nhớ được
tóm-tắt đại-ư, như sau:
Nhiệm-vụ chính
của Quân-Lực là bảo-vệ sự toàn-vẹn Lănh-Thổ
của quốc-gia (bảo-quốc), và nhiệm-vụ chính
của Cảnh-Lực là duy-tŕ cuộc sống An-Ninh
cho dân-chúng (an-dân). Guồng máy chính-quyền ví như
bộ máy đồng-hồ: có bánh xe lớn, có bánh xe
nhỏ; có trục quay phải, có trục quay trái; không
thể nói là ai hơn, ai kém, ai đúng, ai sai; v́
bộ-phận nào cũng có giá-trị cần-thiết
trong vai tṛ riêng của ḿnh.
Quân-Lực (trong
đó có Thiết-Giáp) đồng-thời cũng có
nhiệm-vụ giữ-ǵn An-Ninh cho dân-chúng.
Quân-Lực là quân-sự, vũ-trang; Cảnh-Lực là dân-sự,
bán-vũ-trang. Nơi nào và lúc
nào mà Cảnh-Lực không đủ sức (tức là
không đủ nhân-lực, nhất là vũ-khí) đối-phó
với t́nh-h́nh an-ninh, th́ Quân-Lực thay-thế
Cảnh-Lực.
Khi các đơn-vị
vũ-trang Việt-Cộng đánh vào Thị-Xă Pleiku,
phá-hoại một số nhà cửa, chiếm-cứ
một số đường phố, Cảnh-Lực
sở-tại không thể đương-đầu,
đương-nhiên Quân-Lực (trong đó có Thiết-Giáp)
phải ra tay, đánh đuổi kẻ thù ra khỏi thành-phố,
lùng rượt đối-phương lên tận núi
rừng.
An-Ninh
đă được văn-hồi. Quân-Lực,
cụ-thể là các đơn-vị tham-chiến (Biệt-Động-Quân,
Thiết-Giáp, Không-Quân, Bộ-Binh...) được thưởng
(thăng cấp, gắn huy-chương...). Nôm-na gọi là
Quân-Lực (nói riêng là Thiết-Giáp)
đă tái-lập được An-Ninh cho
Pleiku. Tuy-nhiên, công-trạng
phục-hồi An-Ninh như thế là
đă đạt được tại một không-gian
và vào một thời-gian
nhất-định, chứ không phải là trên khắp lănh-thổ,
và liên-tục măi măi về sau.
Đối
với cộng-sản, không phải chỉ có các
đơn-vị chủ-lực và địa-phương vũ-trang
mà Quân-Lực ta đánh đuổi là xong, mà c̣n có các
tổ-chức và cơ-sở Đảng lẫn-lộn
trong dân-chúng. An-Ninh cũng c̣n lo
về các mặt chính-trị đối-nội (chính-đảng,
giáo-hội, đoàn-thể, sắc-tộc...) và cả chính-trị
đối-ngoại (ngoại-kiều...) v.v...
Nếu An-Ninh
là nhiệm-vụ chính của Quân-Lực th́ tại sao chính-quyền
nước nào trên thế-giới, ngoài Quân-Lực ra, cũng
đều có Cảnh-Lực, coi về An-Ninh.
Cộng-Sản Việt-Nam gọi hẳn Bộ
Nội-Vụ là Bộ Công-An. Ngay chính Quân-Lực VNCH, sau
cuộc Cách-Mạng 1-11-1963, cũng gọi Bộ
Nội-Vụ là Bộ An-Ninh, và Hội-Đồng Quân-Nhân
Cách-Mạng đă cử Trung-Tướng Phạm
Xuân Chiểu qua làm Ủy-Viên An-Ninh (đặc-trách
Cảnh-Sát và Công-An).
Cho nên Quân-Lực
(ở đây nói riêng về Thiết-Giáp)
sau trận phản-công VC (về
mặt quân-sự) tại một số khu-phố của
Thị-Xă và mấy vùng đồi-núi ngoại-ô Pleiku
trong biến-cố Tết Mậu-Thân 1968,
đă giao lại nhiệm-vụ duy-tŕ An-Ninh
tổng-quát và thường-trực cho Cảnh-Lực
địa-phương. Nếu ngoài vùng
Quân-Lực hành-quân và sau đó mà
Cảnh-Lực (về mặt dân-sự, chính-trị), có
lập được công-trạng nào và người ta
gọi là Cảnh-Lực đă duy-tŕ
được An-Ninh cho Pleiku,
th́ đó không phải là Cảnh-Sát giành công
của Thiết-Giáp. (Xem bài Pleiku
Tết Mậu-Thân.)
Điều mà tôi khoái
nhất đối với anh Nguyễn Văn
Đồng là, sau khi nghe tôi phàn-nàn về việc
biệt-phái quân-nhân các cấp (nhất là các cấp
chỉ-huy) qua Cảnh-Lực
một cách ồ-ạt và phản-sách-lược,
vị cựu đại-tá Tư-Lệnh Lữ-Đoàn II
Kỵ-Binh Thiết-Giáp của VNCH đă quên mất cái
dự-định cũ là đưa một số “đàn-em”
qua Cảnh-Lực, mà đă chọn cái quyết-định
mới, bằng câu kết-luận của anh:
– “Việc
chuyên-môn của người ta th́ cứ để cho người
ta làm, tại sao lại qua giành chỗ của người
ta?”
|