Ông sinh ngày 29 tháng 4 năm 1925 tại Hà Nội trong một gia đ́nh cha mẹ là những thương nhân. Ông đă tốt nghiệp Trung học chương tŕnh Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó, ông được tuyển dụng làm công chức của Chính quyền Bảo hộ Pháp cho đến ngày gia nhập quân đội. Đầu tháng 11 năm 1953, thi hành lệnh động viên ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 45/102.581. Theo học khoá 4 Cương Quyết tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, khai giảng ngày 7 tháng 11 1953. Ngày 1 tháng 6 năm 1954 măn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường, ông t́nh nguyện gia nhập Binh chủng Nhảy Dù và được theo học tiếp khoá huấn luyện căn bản Binh chủng tại Bà Quẹo, Tân Sơn Nhứt. Sau 3 tuần măn khóa học, ông được cử làm Trung đội trưởng trong Tiểu đoàn 6 Nhảy Dù. Ngày 9 tháng 8 năm 1954, ông bị thương tại chiến trường Bạc Liêu. Sau khi chuyển sang phục vụ Quân đội của Chính thể Đệ nhất Cộng ḥa (1955) được 2 năm. Giữa năm 1957, ông được thăng cấp Trung úy và được cử giữ chức vụ Đại đội trưởng. Nguyễn Trọng Bảo và Dư Quốc Đống Đầu năm 1962, ông được thăng cấp Đại úy và được chọn làm sĩ quan Tuỳ viên cho Trung tá Kỳ Quan Liêm, Phụ tá Quân sự Bộ Quốc pḥng. Cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm ông được chuyển trở lại đơn vị Nhảy Dù và được giữ chức vụ Trưởng pḥng 3 của Liên đoàn Nhảy Dù. Đầu năm 1965, ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức vụ Tham mưu phó Lữ đoàn Nhảy Dù. Thượng tuần tháng 8 cùng năm, ông bị thương tại chiến trường Đức Cơ. Đến tháng 10 năm 1966, ông được đặc cách thăng cấp Trung tá và được cử giữ chức vụ chỉ huy một Lữ đoàn Nhảy Dù. Đầu năm 1968, ông lại được đặc cách thăng cấp Đại tá tại mặt trận và được cử làm Tham mưu trưởng kiêm Phụ tá hành quân cho Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù. Đại Tá Nguyễn Trọng Bảo (1967) Sáng ngày 14 tháng 7 năm 1972, ông cùng 5 sĩ quan Tham mưu bay trên trực thăng quan sát các cánh quân Nhảy Dù và Thuỷ quân Lục chiến tại phía Đông Bắc Quảng Trị. Vào lúc 10 giờ 45, trực thăng rớt v́ lư do kỹ thuật hư máy. Ông bị tử nạn (1), hưởng dương 47 tuổi. Thi hài của ông được chuyển ngay về Sài g̣n buổi chiều cùng ngày. Sáng hôm sau ngày 15 tháng 7, tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù ở trại Hoàng Hoa Thám đă tổ chức lễ truy điệu cho ông rất trọng thể, ông được truy thăng cấp bậc Chuẩn tướng và truy tặng Đệ Tam đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với Nhành Dương liễu. Tang lễ của ông được tổ chức vào ngày 17 tháng 7 theo lễ nghi Quân cách của một tướng lănh, an táng tại Nghĩa trang Đô thành Mạc Đỉnh Chi, Sài G̣n. Nguồn: Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đ́nh Thụy (2011). Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng ḥa.
|