Đại Tá Ngô Văn Điều

Tia sét miền Tây - Đại Tá Ngô văn Điều - Sư Đoàn 21BB Sét Miền Tây

Vợ ông là Công huyền tôn nữ thị Sương sinh 12.10.1931 tại Chợ lớn. Ông là Đại Tá, giữ trách vụ Phó Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 21 Bộ Binh vào năm 1975. Ông từ trần vào ngày 26.8.2005 (22.7. Ất Dậu) tại Garden Grove Hospital California.

Cựu Đại Tá Ngô văn Điều sinh ngày 24 tháng 12 1932 tại làng Kim Long , huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Ông là con trai thứ 7 trong gia đ́nh có 10 người con của Ông Bà Ngô văn Ban và Dương thị Liên. Lúc thiếu thời ông được theo học trường Ḍng Lasan - B́nh Linh (Pellerin) Huế. Ông tu học và tốt nghiệp cử nhân. Ra dạy học và làm việc tại đồi Lasan Nha Trang với tánh danh là Emilien. Sau v́ t́nh trạng sức khỏe, Bề Trên phê chuẩn cho về thay đổi môi trường sống.

Đến năm 1953, theo lệnh tổng động viên nhập ngũ Ông gia nhập QLVNCH. Số Quân là: 52/200894.

Từ 11/1953 - 6/1954 là Sinh Viên Sĩ Quan Trừ Bị, Khóa IV Quyết Thắng Liên Trường Vơ Khoa Thủ Đức.

Tháng 6 năm 1956 được thăng cấp Trung Úy và được bổ nhiệm làm Sĩ quan Tiếp liệu tại Sở quân cụ Quân Khu II và Liên Đoàn 81 yểm trợ Quân Cụ.

Tháng 1 năm 1959, Ông được biệt phái qua Nha Tổng Giám Đốc Bảo An để tổ chức cơ xưởng sửa chữa quân dụng của Bảo An.

Tháng 6 năm 1961, Ông trở về lại Quân Đội và làm quản trị nhân viên tại căn cứ 80 Tân Trang Quân Cụ. Năm 1962, Ông được chuyển qua làm Sĩ quan điều hành Quân Cụ của đơn vị trên.

Tháng 8 năm 1962, Ông được chỉ định làm đại đội trưởng của Đại Đội 811 yểm trợ trực tiếp Quân Cụ Huế.

Ngày 2 tháng 7 năm 1964, Ông được thăng cấp Đại Úy và được thuyên chuyển về Trung Đoàn 31 Bộ Binh, thuộc Sư Đoàn 21 Bộ Binh đóng tại Chương Thiện với chức vụ Hậu cứ trưởng Trung Đoàn.

Tháng 2 năm 1965, Ông theo học khóa Đièu Khiển Tiếp Vận và tiếp tục làm hậu cứ trưởng Trung Đoàn 31 Bộ Binh.

Tháng 6 năm 1966, Ông được chuyển về Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 21 Bộ Binh và giữ chức vụ của trưởng pḥng IV - phụ trách về tiếp liệu quân dụng cho các đơn vị của Sư Đoàn.

Tháng 6 năm 1967, Ông được chỉ định làm Trưởng pḥng 4 Sư Đoàn; điều hành tiếp vận cho Sư Đoàn.

Ông được thăng cấp Thiếu Tá ngày 1 tháng 1 năm 1968 và làm Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 21 Tiếp Vận của Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho đến ngày 31 tháng 12 năm 1971.

Ngày 1 tháng 1 năm 1972, Ông đươc thăng cấp Trung Tá và được chuyển về Bộ Tổng Tham Mưu - Tổn Cục Tiếp Vận. Ông làm việc ở pḥng tổ chức kế hoạch của Sở kế hoạch chương tŕnh Tổng Cục Tiếp Vận. Sau đó Ông được cử làm Trưởng đoàn tái trang bị cho các đơn vị rút về Huế (từ Quảng Trị) sau chiến dịch Mùa Hè Đỏ Lửa.

Tháng 8 năm 1972, Ông theo học khóa Chỉ huy và Tham Mưu tại trường Chỉ Huy và Tham Mưu Cao Cấp của QLVNCH tại Đà Lạt.

Sau khi măn khóa học vào ngày 1 tháng 1 năm 1973, Ông về làm việc tại Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 21 Bộ Binh và được cử làm Tham Mưu Phó hành quân - tiếp vận và thanh tra.

Ngày 1 tháng 7 năm 1974, Ông được thăng cấp Đại Tá và được ủy nhiệm quyền Tham Mưu Trưởng Sư Đoàn 21 Bộ Binh cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975.

Trong những năm quân vụ, Ông đă được quân đội tưởng thưởng nhiều huy chương cao quư như: Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, 9 Bội Tinh niên hạn (Lục quân huân chương, Quân phong bội tinh, Không vụ bội tinh, Tham mưu bội tinh, Quân vụ bội tinh, Hải vụ bội tinh, Kỹ thuật bội tinh, Chiến dịch bội tinh, và Danh dự bội tinh), 12 Anh Dũng Bội tinh, và 12 Bằng khen Tưởng Lục.

Ông có vợ và 7 người con gồm 5 trai và 2 gái. Trừ một người con đă mất lúc c̣n nhỏ (2 tuổi), 6 người c̣n lại nay đă trưởng thành như ư nguyện.

Ông có 9 Cháu Nội và 3 Cháu Ngoại. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Ông đi tù Cải Tạo trong khoảng 10 năm, từ Sóc Trăng, đến Cần Thơ, lên Long Giao đến Tam Hiệp, rồi ra Yên bái, về Nam Hà và cuối cùng vô Xuân Lộc. Tháng 3 năm 1985, Ông ra tù và sau đó Ông được chính phủ Hoa Kỳ chấp nhận cho định cư theo diện HO5. Ông rời Tổ Quốc Việt Nam thân yêu vào ngày 17 tháng 1 năm 1991 và cư ngụ tại Orange County, Calfornia.

V́ tuổi già sức yếu và v́ căn bệnh Parkinson, Ông đă lâm bệnh trầm trọng hơn 5 năm và đă tạ thế tại Garden Grove Hospital, lúc 6 giờ 40 phút sáng ngày 26 tháng 8 năm 2005 nhằm ngày thứ Sáu, 2 tháng 7 Âm Lịch năm Ất Dậu, hưởng thọ 74 tuổi.

Sư đoàn 21 (1955-1975), là 1 trong 3 đơn vị chủ lực trực thuộc Quân đoàn IV & Quân khu 4 của Quân lực Việt Nam Cộng ḥa. Ban đầu là một đơn vị khinh chiến. Sư đoàn hoạt động và trách nhiệm một số tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long (miền tây Nam phần). Sư đoàn có 2 lần dời bản doanh: Từ Long Xuyên khi thành lập, rồi dời về Bạc Liêu, sau cùng xuống Chương Thiện. Sư đoàn được mệnh danh là đơn vị "Tia sét miền Tây". Có bề dày lịch sử chiến đấu và đă gây rất nhiều tổn thất cho đối phương.


Nguồn Quân Sử Việt Nam