Đại-tá Hồ Ngọc-Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần-thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong quân đội Quốc-gia Việt-Nam. Thủa nhỏ ông rất khỏe mạnh, không hề bị bệnh tật ǵ. Năm 10 tuổi ông bị bệnh quai bị, cả hai bên. Tính t́nh hiền hậu, giản dị, trầm tư, ít nói. Khi ông bắt đầu đi học (1945) th́ chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Măi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học không lấy ǵ làm giỏi cho lắm, thường th́ chỉ đứng trung b́nh trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học trường Thiếu-sinh-quân. Thời điểm này, trên toàn lănh thổ VN có 7 trường TSQ, phân phối như sau : -Trường TSQ đệ nhất quân khu, ở Gia-định. -Trường TSQ đệ nhị quân khu ở Huế. -Trường TSQ đệ tam quân khu ở Hà-nội. -Trường TSQ Móng- cáy dành cho sắc dân Nùng. -Trường TSQ đệ tứ quân khu ở Ban-mê-thuột. -Trường TSQ Đà-lạt của quân đội Pháp. -Trường TSQ Đông-Dương của quân đội Pháp, ở Vũng-tầu. Hồ Ngọc Cẩn được thu nhận vào lớp nh́ trường TSQ đệ nhất quân khu niên khóa 1951-1952. Trường này dạy theo chương tŕnh Pháp. Ông đỗ tiểu học năm 1952. Cuối năm 1952, trường TSQ đệ nhất quân khu di chuyển từ Gia-định về Mỹ-tho. Khi hiệp định Genève kư ngày 20-7-1954, th́ ngày 19 tháng 8 năm 1954, trường TSQ đệ tam quân khu di chuyển từ Hà-nội vào, sát nhập với trường TSQ đệ nhất quân khu ở Mỹ-tho. Niên học 1954-1955, trường TSQ đệ nhất quân quân khu bắt đầu dạy chương tŕnh Việt, và chỉ mở tới lớp đệ ngũ. Hồ Ngọc-Cẩn học lớp đệ lục A, giáo sư dạy Việt-văn là ông Nguyễn Hưũ-Hùng, từ Bắc di cư vào. Thực là một điều lạ, là giữa một số bạn học chương tŕnh Việt từ Bắc vào, mà Hồ Ngọc-Cẩn lại tỏ ra xuất sắc về môn Việt-văn. Trong năm học, có chín kỳ luận văn, th́ bài của Cẩn được tuyển chọn là bài xuất sắc, đọc cho cả lớp nghe bảy kỳ. Nhưng bài của Cẩn chỉ đứng thứ nh́ trong lớp mà thôi. Năm này Cẩn bắt đầu làm thơ. Thơ của Cẩn không có hùng khí, đa số những bài thơ này cực kỳ lăng mạn. -Ghi chú. Ông Hùng bấy giờ mới đỗ tú tài. Trong thời gian dạy tại trường TSQ, ông tự học, đỗ cử nhân luật. Sau khi đỗ cử nhân luật, ông được bổ làm thẩm phán ở Tuy-ḥa, rồi làm bộ trưởng Lao-động, rồi thẩm phán ở Phước-tuy, rồi lại làm bộ trưởng Lao-động. Sau 1975 ông sống tiềm ẩn ở Huston, bang Texas, Hoa-kỳ và từ trần năm 2000. Hết năm học, Cẩn đă 17 tuổi. Theo học quy của trường TSQ, th́ khi một học sinh mười bẩy tuổi, mà chưa học hết đệ ngũ, sẽ được gửi đi học chuyên môn. C̣n như mười bẩy tuổi, mà học hết đệ ngũ, lại tỏ ra xuất sắc th́ được giữ lại học đệ tứ, rồi… cho học lên cao nữa. Niên khóa 1955-1956, Hồ Ngọc-Cẩn được gửi lên học tại Liên-trường vơ khoa Thủ-đức, về vũ khí. Sau ba tháng, Cẩn đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu. Sáu tháng sau đó, Cẩn lại đậu chứng chỉ bậc nh́, và bắt đầu kư đăng vào quân đội với cấp bậc binh nh́. Quy chế dành cho các TSQ Việt-Nam thời ấy là quy chế dành cho các TSQ Pháp trong thời b́nh. Một học sinh ra trường, th́ ba tháng đầu với cấp bậc binh nh́, ba tháng sau với cấp bậc hạ sĩ, ba tháng sau thăng hạ sĩ nhất, và ba tháng sau nữa thăng trung sĩ. Chín tháng sau Cẩn là trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí. Chiến tranh tại miền Nam VN tái phát vào năm 1960 tại một vài vùng. Sang năm 1961 th́ lan rộng. Để giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan, bộ Quốc-pḥng cho mở các khóa sĩ quan đặc biệt. Được nhập học trường này, tất cả các hạ sĩ quan có trên năm năm công vụ, có bằng Trung-học đệ nhất cấp. Với sự nâng đỡ đặc biệt của đại tướng Lê Văn-Tỵ Tổng-tham mưu trưởng, nguyên là một cựu TSQ, các hạ sĩ quan xuất thân từ trường TSQ, không cần phải hội đủ tŕnh độ học vấn, cũng như thâm niên công vụ, đều được nhập học. Nào ai ngờ, với sự nâng đỡ đặc biệt này, đă cung cấp cho đất nước VN không biết bao nhiêu sĩ quan gương mẫu, anh hùng trên chiến trường. Hồ Ngọc-Cẩn tốt nghiệp khóa 2 ( ?) sĩ quan đặc biệt với cấp bậc chuẩn úy. Dường như có một mật lệnh của Tổng-thống Ngô Đ́nh-Diệm hay đại tướng Lê Văn-Tỵ, các tân chuẩn úy, xuất thân từ trường TSQ, đều được đưa về phục vụ tại các binh chủng : Dù, Thủy-quân lục chiến (TQLC) , Biệt-động quân (BĐQ), Quân-báo, An-ninh quân đội, và Lực-lượng đặc biệt (LLĐB). Sau khi ra trường, Hồ Ngọc-Cẩn theo học một khóa huấn luyện BĐQ, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại khu 42 chiến thuật, với chức vụ khiêm tốn là trung đội trưởng. Lănh thổ khu này gồm các tỉnh Cần-thơ (Phong-dinh), Chương-thiện, Sóc-trăng (Ba-xuyên), Bặc-liêu, Cà-mâu (An-xuyên). Về sau, v́ t́nh h́nh chiến tranh thay đổi, quân Cộng-sản từ du kích chiến, chuyển sang đánh cấp tiểu đoàn và trung đoàn, các đại đội BĐQ cũng phải kết hợp thành tiểu đoàn. Các đại đội BĐQ của khu 42 chiến thuật kết thành hai tiểu đoàn. Tiểu đoàn mang số 42, đơn vị mà Cẩn phục vụ, được tặng mỹ danh là tiểu đoàn Cọp ba đầu rằn. Tiểu đoàn mang số 44 được tặng mỹ danh là Cọp xám U-minh hạ. Tôi đă gặp Hồ Ngọc-Cẩn bao giờ ? Tại đâu ? Câu truyện như thế này : Năm 1966, khi đọc trong Đại-Nam chính biên liệt truyện, Đại-Nam nhất thống chí viết về ” Ngụy Tây-sơn “, có rất nhiều nghi vấn trong những trận đánh giữa vua Quang-Trung, với vua Gia-long tại rừng U-minh. Tôi nảy ra ư xuống vùng tận cùng của đất nước này t́m hiểu thêm. Bấy giờ đang xẩy ra vụ biến động miền Trung, ” các thầy mang bàn thờ xuống đường ” , chiến cuộc tại miền Tây cực kỳ sôi động, mẹ tôi, bà má má (vú nuôi) cực lực phản đối, v́ đi như vậy dễ tiêu dao miền Cực-lạc lắm. Nhưng bố tôi, sau khi tính số Tử-vi của tôi, cụ lại khuyên tôi nên đi. Cụ nói ” Con đi lần này sẽ có thêm nhiều bạn tốt, hơn nữa có dịp biết về vùng đồng lầy Cà-mau “. Tôi nhất quyết đi, bà má má tôi khóc khốn khổ, nhưng cũng không cản được cái tính phiêu lưu và mê sưu tầm của tôi. Nhưng làm thế nào để có thể được vào tất cả những làng, những xă, mà không gặp trở ngại ? Làm sao có phương tiện di chuyển ? Chỉ một cú điện thoại, ông bố tôi đă kiếm cho tôi cái giấy giới thiệu của tờ tuần báo trung lập lớn nhất ở Paris. Bà má má kiếm cho tôi giấy giới thiệu của tờ nhật báo Hoa-văn tại Hương-cảng. Thế là tôi bỗng trở thành kư giả bất đắc dĩ . Tôi đến bộ tư lệnh MACV xin giúp phương tiện làm phóng sự chiến trường ở vùng 4 chiến thuật. Tôi chỉ mong t́m hiểu lịch sử, chứ nào có chủ tâm làm kư giả ! Nhưng sau chuyến đi ấy, quá súc động về cuộc chiến tranh thê thảm, tôi đă viết rất nhiều bài kư sự chiến trường, đăng trên một số báo ngoại quốc. Khởi đầu, uất hận trước cái chết của một cô bạn gái tên Đặng-thị Tuyết, mới hai mươi tuổi, làm nữ cán bộ Xây-dựng nông thôn tại kinh Tắc-vân, Cà-mau. Tôi là thầy thuốc, mà cô bị trúng đạn, chết trên tay tôi. Tôi viết bài ” Giang biên hoa lạc ” gây xúc động mạnh cho độc giả Hương-cảng và giới Hoa-kiều tại VN. Sau tôi có dịch bài này sang tiếng Việt với tên là ” Hoa rơi bên bờ kinh Tắc-vân ” . Tôi gửi bài này dự thi giải kư sự chiến trường của Cục Tâm-lư chiến năm 1967. Bài của tôi được giải nh́. Giải nhất về Trang-Châu cũng là một bài kư sự của y sĩ tiền tuyến. Một trong các giám khảo nói với tôi ” Về nội dung, bài của cháu với Trang-Châu cùng nói lên niềm mơ ước của tuổi trẻ quên ḿnh cho quê hương. Nhưng bài của Trang-Châu trung thực, c̣n bài của cháu th́ ướt át quá, thê thảm quá, dù răèng đó là sự thực “. Sau đây, tôi xin trích nguyên văn một đoạn tôi viết về Hồ Ngọc-Cẩn, trong bài ” Ngũ hổ U-minh thượng “, kể chuyện năm tiểu đoàn trưởng nổi danh can đảm, có máu văn nghệ, nhất là phong lưu tiêu sái, tại chiến trường cực Nam năm 1966. Ngũ hổ là : -Đai-úy Hồ Ngọc-Cẩn, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1/33, -Thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 42 BĐQ. -Thiếu-tá Nguyễn Văn-Huy tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 44 BĐQ, -Thiếu-tá Lê Văn-Hưng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2/31. -Đại-úy Vương Văn-Trổ tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3/33. -Ghi chú Tôi xếp theo thứ tự abc. Trong năm người th́ Kiệt tuẫn quốc năm 1967. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Hưng tự tử, Cẩn bị xử bắn. C̣n Trổ , sau lên đại tá lĩnh tỉnh trưởng Kiên-giang, hiện định cư tại Huston, bang Texas, Hoa-kỳ. C̣n Huy tôi không biết sau ra sao ? Ngày19 tháng 4 năm 1966, tôi tới phi trường Vĩnh-lợi bằng phi cơ Caribou của quân đội Hoa-kỳ. Người đón tôi là thiếu tá Raider, của cố vấn đoàn 42. Tại bản doanh của cố vấn đoàn 42, đại tá cố vấn trưởng Hathaway không biết ǵ về chủ đích chuyến đi của tôi. Ông chỉ căn cứ vào giấy giới thiệu do hai chủ báo cấp, mà đoán rằng tôi là tên thầy thuốc trẻ, thích phiêu lưu, nên đi làm kư giả. Ông cho tôi biết t́nh h́nh địch rất chi tiết. Về t́nh h́nh quân đội VN tại năm tỉnh tận cùng của đất nước, ông nói : ” Khu 42 chiến thuật, do sư đoàn 21, thuộc quân đoàn 4 trấn nhậm. Sư đoàn có ba trung đoàn mang số 31, 32, 33. Trung đoàn 31 đóng tại Chương-thiện. Trung-đoàn 32 đóng tại Cà-mau. Trung-đoàn 33 đóng tại Ba-xuyên. Ngoài ra c̣n có hai tiểu đoàn Biệt-động quân mang số 42 và 44. Tiểu đoàn 42 đóng tại Bặc-liêu, tiểu đoàn 44 đóng tại Ba-xuyên “. Ông ca tụng quân đội VN như sau : ” Lương bổng cho người lính VN, chỉ gọi là tạm đủ ăn. Doanh trại không có, trang bị thiếu thốn. Nhưng họ chiến đấu như đoàn sư tử. Tuy vậy vẫn có những điều đáng phàn nàn. Ông là thầy thuốc cầm bút, xin ông lướt qua những cái đó “. Bốn hôm sau, có cuộc hành quân cấp sư đoàn. Tôi được gửi theo tiểu đoàn 42 Biệt-động quân. Tiểu đoàn trưởng là thiếu-tá Lưu Trọng-Kiệt, tiểu đoàn phó là trung-úy Hồ Ngọc-Cẩn. Cái tréo cẳng ngỗng là đối với cố vấn đoàn th́ tôi là kư giả. C̣n Kiệt với Cẩn lại tưởng tôi là bác sĩ t́nh nguyện ra mặt trận. Tiểu đoàn được đặt làm trừ bị tại phi trường Vĩnh-lợi, từ bẩy giờ sáng, chuẩn bị nhảy trực thăng vận. Nếu khi nhảy, th́ tiểu đoàn sẽ nhảy làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm đại đội 1, 2 do Hồ Ngọc-Cẩn chỉ huy. Cánh thứ nh́ gồm đại đội 3 và đại đội chỉ huy, do thiếu tá Lưu Trọng-Kiệt chỉ huy. Tôi với Kiệt, Cẩn ngang ngang tuổi nhau. Tôi có máu giang hồ của người tập vơ, coi trời bằng vung, lại cũng có học qua quân sự, nên chúng tôi thân cận nhau dễ dàng. Đại-úy cố vấn tiểu đoàn muốn tôi nhảy theo bộ chỉ huy. Anh hỏi tôi : - Lần đầu tiên ra trận, ” sơ ” có sợ không ? Tôi trả lời như những nhân vật trong lịch sử Việt-Nam: - Tráng sĩ khi ra trận, không chết th́ cũng bị thương. Nếu sợ chết th́ đừng ra trận. Cẩn hỏi tôi đă học quân sự chưa ? Tôi đáp: - Kiến thức về quân sự của tôi chỉ bằng phó binh nh́ thôi. Nhưng cũng biết ḅ, biết núp, biết nhảy, biết bắn. Đánh nhau bằng súng th́ tôi dở ẹc, nhưng đánh cận chiến th́ tôi có hạng, v́ tôi là ông thầy dạy vơ. Thông dịch viên dịch lại cho binh sĩ nghe. Họ khen tôi: - Ông bác sĩ này ngon thực ! Tôi hỏi Kiệt : - Trong hai cánh, th́ cánh nào có hy vọng được đánh nhau nhiều hơn ? Kiệt chỉ Cẩn : - Anh cứ nhảy theo thằng này, th́ sẽ toại nguyện. Tha hồ mà hành nghề. Tiểu đoàn cũng có sĩ quan trợ y. Anh biệt phái cho tôi một y tá cấp trung sĩ, với đầy đủ thuốc cấp cứu. Trên lưng tôi chỉ có bộ đồ giải phẫu dă chiến. Khoảng mười giờ th́ có lệnh : Một đơn vị địa phương quân chạm địch tại Vĩnh-châu. Địch là tiểu đoàn Cơ-động Sóc-trăng. Tiểu đoàn phải nhảy trực thăng vận đánh vào hông địch. Địa điểm nhảy là một khu đồng lầy. Sau khi Kiệt họp các sĩ quan, tóm lược vắn tắt nhiệm vụ, t́nh h́nh trong mười phút. Cẩn dẫn tôi ra phi đạo. Hai đại đội đă lên trực thăng từ bao giờ. Chúng tôi cùng leo lên một trực thăng. Hai mươi lăm chiếc trực thăng cùng cất cánh. Trực thăng bay khoảng bẩy phút, th́ Cẩn chỉ vào khu làng mạc trước mặt : - Ḱa, chỗ chúng ḿnh đáp ḱa. Trực thăng hạ cánh. Thoáng một cái hơn hai trăm người từ trực thăng lao ra. Một cảnh tượng, mà không bao giờ tôi quên : Những người lính dàn ra thành một hàng ngang. Họ núp vào cái những cái bờ ruộng, mô đất, tay thủ súng, mắt đăm đăm nh́n về trước. Đó là một làng, lưa thưa mấy ngôi nhà tranh, ẩn hiện dưới những cây dừa xanh tươi. Mặc dù súng trong làng bắn ra, nhưng những người lính ấy, vẫn chưa bắn trả. Tôi đưa mắt nh́n một lượt, các sĩ quan, người th́ nằm, người th́ quỳ, cũng có người đứng. Từ lúc nhảy xuống, Cẩn không hề nằm, quỳ, mà đứng quan sát trận ḿnh, quan sát trận địch. Một là điếc không sợ sấm, hai là tự tin vào số Tử-vi của ḿnh thọ, tôi cũng đứng. Hơn mười phút sau, cánh quân thứ nh́ đă nhảy xuống trận địa. Trận vừa dàn xong, th́ sĩ quan đề lô xin pháo binh nă vào những chỗ có ổ moọc-chiê, trung liên, đại liên trong làng. Một lệnh ban ra, hơn bốn trăm con cọp dàn hàng ngang, vừa bắn, vừa xung phong vào trong làng. Trong khi súng trong làng bắn ra, đạn cầy các ụ đất, trúng vào ruộng nước, bụi, nước bắn tung. Hàng quân tới bờ ruộng cuối cùng, cách b́a làng không đầy năm mươi thước, th́ súng nhỏ từ trong mới nổ. Cả hàng quân đều nằm dài ra sau cái bờ ruộng. Giữa lúc đó, sĩ quan pháo binh trúng đạn lật ngươc. Tôi chạy lại cấp cứu, th́ không kịp, viên đạn xuyên qua sọ anh. Thế là pháo binh vô hiệu. Trực thăng vơ trang được gọi đến. Cố vấn Mỹ báo về trung tâm hành quân. Cố vấn tại trung tâm hành quân ra lệnh cho phi công trực thăng nă xuống địa điểm có địch quân. Tôi đứng cạnh Cẩn tại một mô đất. Cẩn không thực tiếp cầm máy chỉ huy, mà ra lệnh cho các đại đội, trung đội qua hiệu thính viên. Sau khi trực thăng vơ trang nă ba loạt rocket, đại liên, th́ lệnh xung phong truyền ra. Cả tiểu đoàn reo lên như sóng biển, rồi người người rời chỗ nằm lao vào làng. Không đầy mười phút sau, tiếng súng im hẳn. Bây giờ là lúc tôi hành nghề. Những binh sĩ, tù binh bị thương nặng được băng bó, cầm máu, rồi trực thăng tải về quân y viện. C̣n như bị thương nhẹ th́ được điều trị tại chỗ. Tôi ngạc nhiên vô cùng, khi thấy những binh sĩ bị thương khá nặng, nghe tôi nói rằng : Nếu họ muốn, tôi có thể gắp đạn, may các vết thương đó cho họ, mà không phải về quân y viện. Họ từ chối đi quân y viện, xin ở lại để tôi giúp họ. Tôi cùng sĩ quan trợ y, bốn y tá làm việc trong hơn giờ mới xong. Tôi hỏi Cẩn : - Tôi tưởng, thương binh được về quân y viện chữa trị, nghỉ ngơi, th́ là điều họ mong muốn mới phải. Tại sao họ muốn ở lại ? - Bọn cọp nhà này vẫn vậy. Chúng tôi sống với nhau, kề cận cái chết với nhau, th́ xa nhau là điều buồn khổ vô cùng. Đấy chúng nó bị thương như vậy đấy, lát nữa anh sẽ thấy chúng chống gậy đi chơi nhông nhông ngoài phố, coi như bị kiến cắn. Tôi đi một ṿng thăm trận địa. Hơn hai trăm xác chết, mặc áo bà ba đen, quần đùi . Những xác chết đó, gương mặt c̣n non choẹt, đa số tuổi khoảng 15 đến 20, cái th́ nằm vắt vẻo trên bờ kinh, cái th́ bị cháy đen, cái th́ mất đầu. Cũng có cái nằm chết trong hầm. Không biết, trong khi họ phơi xác ở đây, th́ cha mẹ, anh em, vợ con họ có biết không ? Sau trận đó th́ Cẩn được thăng cấp đại úy. Cuối năm 1966, Cẩn từ biệt tiểu đoàn 42 BĐQ đi làm tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 (Sư đoàn 21). Việc đầu tiên của Cẩn khi làm tiểu đoàn trưởng là xin sư đoàn cho tất cả các sĩ quan, hạ sĩ quan xuất thân trường TSQ về chiến đấu cùng với ḿnh. Cẩn đă được thỏa măn một phần yêu cầu. Tôi hỏi Cẩn : - Anh đem các cựu TSQ về, với mục đích ǵ ? - Một là để dễ sai. Tất cả bọn cựu TSQ này đều ra trường sau tôi. Chúng là đàn em, dù tôi không phải là cấp trên của chúng nó, mà chúng no lộn xộn, tôi vẫn hèo vào đít chúng nó được. Nay tôi muốn chúng về với tôi, để tôi có thể dạy dỗ chúng nó những ǵ mà tại quân trường không dạy. Hai là, truyền thống của tôi khi ra trận là chết th́ chết chứ không lùi, v́ vậy cần phải có một số người giống ḿnh, th́ đánh nhau mới đă. Bọn cựu TSQ đều như tôi cả. Suốt năm 1967, Cẩn với tiểu đoàn 1/33 tung hoành trên khắp lănh thổ năm tỉnh Hậu-giang, khi Đại-ngăi, khi Tắc-vân, khi Kiên-hưng, khi Thác-lác, khi Cờ-đỏ. Sau trận tổng công kích Mậu-Thân, Cẩn được thăng thiếu tá. Năm 1968, Cẩn là người có nhiều huy chương nhất quân đội. Thời gian này tôi bắt đầu viết lịch sử tiểu thuyết, nên tôi đọc rất kỹ Lục-thao, Tam-lược, Tôn-Ngô binh pháp, cùng binh pháp của các danh tướng Đức, Pháp, nhất là của các tướng Hồng-quân. Tôi dùng kiến thức quân sự trong sách vở để đánh giá những trận đánh của Cẩn từ 1966. Tôi bật ngửa ra rằng, Cẩn không hề đọc, cũng không hề được học tại trường sĩ quan, những binh pháp đó. Mà sao từ cung cách chỉ huy, cung cách hành xử với cấp dưới, cấp trên, nhất là những trận đánh của Cẩn bàng bạc xuất hiện như những lư thuyết trong thư tịch cổ ? Năm 1970, Cẩn thăng trung tá, rời tiểu đoan 1/33 đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn 15 thuộc sư đoàn 9. Năm 1972, Cẩn được lệnh mang trung đoàn 15 từ miền Tây lên giải phóng An-lộc. Cuối năm 1973, Cẩn được trở về chiến trường śnh lầy với chức vụ tỉnh trưởng, kiêm tiểu khu trưởng Chương-thiện. Lần cuối cùng tôi gặp Cẩn vào mùa hè năm 1974 tại Chương-thiện. Tôi hỏi Cẩn : - Anh từng là trung đoàn trưởng, hiện làm tỉnh trưởng. Anh có nghĩ rằng sau này sẽ làm sư đoàn trưởng không ? - Tôi lặn lội suốt mười bốn năm qua, gối chưa mỏi, nhưng kiến thức có hạn. Được chỉ huy trung đoàn là cao rồi. Ḿnh phải biết liêm sỉ chứ ? Coi sư đoàn sao được. - Thế anh nghĩ sau này anh sẽ làm ǵ ? - Làm tỉnh trưởng bất quá một hai năm nữa rồi tôi phải ra đi, cho đàn em họ có chỗ tiến thân. Bấy giờ tôi xin về coi trường TSQ, hoặc coi các lớp huấn luyện đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, đem những kinh nghiệm thu nhặt được trong mười mấy năm qua dạy đàn em. Tôi sẽ thuật trước sau hơn ba trăm trận đánh, mà tôi trải qua, nhờ anh viết lại. Bộ sách đó, anh nghĩ nên đặt tên là ǵ ? - ” Cẩm nang của các đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng trong chiến tranh chống du kích taị vùng đồng lầy “. Nhưng liệu bộ Quốc-pḥng có cho phép in hay không ? - Không cho in th́ ḿnh cũng cứ thuật, rồi đem giảng dạy, ai cấm được ? Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng của tôi với Cẩn. Sau khi miền Nam mất, tôi không được tin tức của Cẩn. Măi năm 1976, tôi được tin : Ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi tên tướng mặt bánh đúc Dương Văn-Minh ra lệnh đầu hàng. Cẩn chống lại lệnh đó. Các đơn vị Cộng-quân tiến vào tiếp thu tiểu khu Chương-thiện, th́ gặp sức kháng cự, chết rất nhiều. Cẩn bị bắt, rồi bị đem ra xử tử. Ghi chú. Tại Sài-g̣n 9 giờ bẩy phút, tiếng súng kháng cự tại các đơn vị dù chấm dứt. Tại bộ chỉ huy tiểu khu Chương-thiện kéo dài tới 15 giờ. Trong khi đó, tiếng súng kháng cự của các Thiếu-sinh-quân c̣n kéo dài tới 19 giờ bốn mươi lăm phút tại Vũng-tầu. Nếu tôi không lầm th́ các TSQVN là những người chiến đấu cuối cùng của miền Nam. Cuộc xử Cẩn do hai nhân chứng thuật lại : Một là Trung-tá Bùi Văn Địch (Hiện sống ở Berlin, Đức), xuất thân trường Thiếu-sinh-quân Hà-nội, sau di vào Mỹ-tho. Trung-tá Địch đă sống với Cẩn 2 năm tại trường Thiếu-sinh-quân Mỹ-tho. Thời gian 1972, cả hai từng cùng phục vụ tại sư đoàn 9 bộ binh. Hai là phu nhân của Trung-tá bác-sĩ Jean Marc Bodoret, nhũ danh Vũ-thị Quỳnh-Chi (Hiện sống ở Marseille), em ruột của cựu Thiếu-sinh-quân Vũ Tiến Quang. Quang là người nạp đạn cho Cẩn xử dụng khẩu đại liên 30, bắn đến viên đạn cuối cùng trong công sự chiến đấu tiểu khu Chương-thiện. (Xin xem bài Cái bóng của Hoài-văn vương Trần Quốc Toản trong sách này). Bà Bodoret chứng kiến tận mắt hai cuộc xử án Cẩn. Cuộc xử án như sau : Ngay khi Cẩn bị bắt, người ta để Cẩn lên một chiếc xe mui trần, chở đi khắp thành phố Chương-thiện cho dân chúng xem chiến lợi phẩm. Ngồi trên xe, Cẩn thản nhiên mỉm cười, vẫy tay chào dân chúng. Cái gọi là Ṭa án nhân dân được lập ngay trước ṭa hành chánh. Sau khi quan ṭa kết tội Cẩn bằng những từ ngữ hiếm hoi thấy trong các đạo luật trên thế giới. Người ta kêu gọi dân chúng, ai là nạn nhân của Cẩn th́ đứng lên tố cáo, rồi muốn đánh, muốn chửi tùy thích. Nhưng chỉ có vài cán bộ nội thành tố cáo Cẩn là ác ôn có nợ máu. Dân chúng không có ai lên tiếng cả. Người ta hỏi : Những ai đồng ư xử tử Cẩn th́ dơ tay lên ! Lại cũng chẳng có ai dơ tay. Thế là cuộc xử án ngừng lại. Rồi, ba tuần sau, cuộc xử án Cẩn lại diễn ra ở sân vận động thể thao Cần-thơ. Lần này người ta chuẩn bị kỹ hơn, người ta cho tụi ḅ-vàng xen lẫn với dân chúng. Cũng bản cũ soạn lại, nhưng người ta khôn khéo hơn, người ta không hỏi xem Cẩn đă nợ máu với ai, th́ hăy ra mà xỉ vả, đánh đập. Người ta chỉ hỏi : Ai đồng ư xử tử Cẩn th́ dơ tay. Ḅ vàng dơ tay, một số dân chúng dơ tay. Số đông vẫn cứng đầu, không đơ tay. Người ta hỏi Cẩn có nhận những tội mà ṭa án nêu ra không ? Cẩn cười nhạt : ”Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh như các anh kết án tôi. Tôi cũng không làm nhục các anh như các anh làm nhục tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi. Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội. Không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phê phán đoán các anh là giặc đỏ hay tôi là ngụy. Các anh muốn giết tôi, cứ giết đi. Xin đừng bịt mắt “. Rồi Cẩn hô: ”Đả đảo Cộng-sản. Việt-Nam muôn năm ” Sau khi Cẩn bị bắn chết, dân chúng hiện diện khóc như mưa như gió. Trời tháng năm, đang nắng chói chang, tự nhiên sấm chớp nổ rung động không gian, rồi một trận mưa như trút xuống. Nắng mưa là hiện tượng b́nh thường của trời đất. Nhưng dân chúng Cần-thơ th́ cho rằng, trời khóc thương cho người anh hùng, gặp cơn sóng gió của đất nước. Khi tôi gặp Cẩn, th́ tôi chưa khởi công viết lịch sử tiểu thuyết. Thành ra cuộc đời Cẩn, cuộc đời các cựu TSQ quanh Cẩn, in vào tâm năo tôi rất sâu, rất đẹp. V́ vậy sang năm 1968, khi bắt đầu viết, th́ bao giờ tôi cũng khơỉ đầu bằng thời thơ ấu của những nhân vật chính. Trong bộ nào, cũng có những thiếu niên, khi ra trận chỉ tiến lên hoặc chết, chứ không lùi. Có rất nhiều người đặt câu hỏi : Giữa tôi và Cẩn như hai thái cực . Cẩn chỉ học đến đệ lục, tôi được học ở nhà, ở trường đến tŕnh độ cao nhất. Cẩn là người Nam, tôi là người Bắc. Cẩn theo đạo Chúa, tôi là cư sĩ Phật-giáo. Tôi th́ sống trong sách vở, hay đi trên mây, Cẩn th́ lăn lộn với thực tế. Tôi không biết uống rượu, Cẩn th́ nổi danh tửu lượng cao nhất sư đoàn 21 bộ binh. Tôi thấy người đẹp là chân tay run lẩy bẩy, Cẩn th́ rửng rưng. Thế mà khi gặp nhau, chúng tôi thân với nhau ngay. Thân đến độ giăi bầy cho nhau tất cả những tâm sự thầm kín nhất, không một người thứ nh́ biết được. Tại sao ? Cho đến nay, tôi mới trả lời được rằng : Cẩn cũng như những người quanh Cẩn, là những h́nh bóng thực, rất quen thuộc mà trước kia tôi chỉ thấy trong lịch sử. Nay được gặp trong thực tế. Hai mươi mốt năm qua, đúng mười hai giờ trưa, ngày 30 tháng tư, dù ở bất cứ nơi nào, tôi cũng mua bó hoa, đèn cầy, vào nhà thờ đốt nến, đặt hoa dưới tượng đức mẹ, và cầu xin cho linh hồn Cẩn được an lành trong ṿng tay người. Tôi lược thuật về cuộc đời Cẩn mà không phê b́nh, v́ Cẩn là bạn thân của tôi. Và tôi không đủ ngôn từ đẹp đẽ để tặng Cẩn. Viết tại Paris Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ.
Một kỷ niệm về đại tá Hồ Ngọc Cẩn Nghiêm Hữu Hùng Tôi thuộc ḷng bài thơ "Après la bataille" cuả Victor Hugo và luôn xem đó là hành trang vào đời khi nhập ngũ: "Làm cách nào đối xử với con người cả bạn lẫn thù với ḷng nhân" Tuy nhiên những ǵ xảy ra ngoài chiến trường nhiều khi khác hẳn với thơ Victor Hugo, nhân vật chính (mon père ...) trong bài thơ là một vị tổng chỉ huy, có toàn quyền quyết định về hành động của ḿnh c̣n tôi chỉ là Y Sĩ Trung Úy, một cấp bậc rất nhỏ, ngoài phạm vi chuyên môn ra, có rất nhiều hoàn cảnh không thể tự ḿnh quyết định được như câu chuyện sau đây: Thời Chiến Tranh Việt Nam, thông thường các Sĩ Quan cao cấp đối xử với Bác Sĩ rất tốt, cả hai bên đều tỏ ḷng qúy trọng lẫn nhau Nhưng cũng có rất nhiều nghịch cảnh, một chuyện ai cũng biết là đôi khi có vài binh sĩ v́ sợ chết nên đă "tự huỷ hoại thân thể" bằng nhiều cách như: - Chích mủ xương rồng vào ngón tay để gây gangrène (mất ngón trỏ bàn tay phải th́ sẽ được giải ngũ v́ không thể bóp c̣ súng) - Tự bắn vào ḷng bàn tay - Đào một cái hố, tḥ bàn chân vào trong rồi ném kíp lựu đạn xuống hố, tự hủy hoại bàn chân v...v Đại khái có rất nhiều cách mà chỉ trong thời gian ngắn một Bác Sĩ có thể phân biệt được vết thương nào là thật, vết thương nào tự tạo Tuy nhiên cái khó nhất là xử sự ra sao với t́nh trạng hủy hoại thân thể Trong phần lớn trường hợp, dù biết tôi cũng bỏ qua không báo cáo, vẫn cho xe cứu thương hoặc gọi trực thăng tải thương Lần đầu tôi phải đối phó với sự trớ trêu là tháng 8 năm 1974 khi đi hành quân tăng phái cho Tiểu Khu Chương Thiện, lúc đó Tỉnh Trưởng là Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn (Đại Tá Cẩn sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 bị Việt Cộng kết án tử h́nh và xử bắn tại Sân Vận Động Cần Thơ) Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn lớn hơn tôi khoảng 5 tuổi, có vẻ mặt thư sinh và nho nhă, xuất thân từ Thiếu Sinh Quân, nhưng trái với những huyền thoại về một chiến binh can trường, cách nói chuyện cuả ông lại rất từ tốn và chín chắn tuy ông vẫn lấy làm tiếc là không được học cao nhưng là một quân nhân đúng nghĩa, thương binh sĩ, chiến đấu hết ḿnh và rất trọng người có học. Ông tỏ ra rất qúy mến tôi, mỗi buổi chiều thường mời ăn cơm chung và những lúc rảnh rỗi ông bỏ ra cả giờ để tâm sự về cuộc đời Nhưng một buổi sáng giao t́nh của chúng tôi đột nhiên trở nên căng thẳng khi ông "mời" tôi đến thăm "chuồng cọp", nơi giam giữ các quân nhân bị kỷ luật và các quân nhân tự hủy hoại thân thể. Đại Tá Cẩn chỉ một anh lính bị vết thương hoại tử (gangrène) ở mắt cá chân rồi hỏi tôi, rất lịch sự: "Xin Bác Sĩ cho biết trường hợp này nếu đưa vào Bệnh Viện sẽ phải cưa chân tới đâu ?" "Tôi thấy là phải tải thương anh ta ngay, c̣n cưa chân tới đâu th́ Bác Sĩ ở Bệnh Viện mới quyết định đươc" Rồi tôi cũng gần như quên chuyện này v́ quân nhân đó là thuộc cấp của ông ta, không thuộc quyền tôi Nhưng hai, ba hôm sau Đại Tá Cẩn lại mời tôi tới thăm "chuồng cọp". Tôi ngạc nhiên tới mức không c̣n phản ứng ǵ khi thấy vẫn là anh lính cũ mà vết thương đă nặng hơn nhiều, sốt cao và gangrène đă tới gần đầu gối, Đại Tá Cẩn vẫn nói rất từ tốn nhưng có vẻ hơi lạnh lùng: " Bác Sĩ cho biết nếu bây giờ tải thương th́ cưa chân tới đâu?" Tôi trả lời: "Xin Đại Tá cho tải thương ngay đi, v́ cầm chắc phải cưa tới đầu gối" "Vậy tôi nhờ Bác Sĩ mỗi ngày ghé qua đây một lần, khi nào cưa tới háng th́ báo cho tôi biết" Bây giờ th́ tới lượt tôi nổi nóng: "Đại Tá có đùa với tôi không đấy? là y sĩ tôi không thể mất nhân tính như vậy được" Mặt ông ta đột nhiên đỏ bừng và chuyển thái độ xưng hô: "Anh có biết là chưa có một ai trong Tỉnh này dám trái lệnh tôi không ?" Và cũng là lần đầu tôi lớn tiếng với một Sĩ Quan cao cấp: "Tôi biết, người đầu tiên dám trái lệnh ông là tôi, ngay từ bây giờ ông có thể kiếm bất cứ ai không dám trái lệnh ông mà hỏi, tôi sẽ không làm việc với ông nữa" Rồi cả hai chúng tôi đều quay mặt bỏ đi không nói với nhau thêm lời nào Một điều tôi biết chắc chắn là ngoài chiến trường những Sĩ Quan cao cấp và có toàn quyền như Đại Tá Cẩn, nếu muốn giết một Quân Y Sĩ như tôi rất dễ dàng, có thể sai bất cứ một thuộc cấp nào làm rồi đổ cho chiến tranh là xong Tối hôm đó khi trở về pḥng ngủ, mấy người lính Quân Y và người cận vệ lo ngại lắm, tổ chức gác ṿng trong ṿng ngoài nhưng tôi chỉ biết cám ơn và nói với họ: "Nếu họ muốn giết ḿnh th́ canh gác được tới bao giờ?" Tôi ngồi viết một bản tường tŕnh nhờ người cận vệ cất giữ để "nếu có ǵ xẩy ra" sẽ trao cho gia đ́nh tôi Qua hai ngày như thế, tới đêm thứ ba th́ bỗng nhiên Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đích thân tới pḥng tôi mời lên tư dinh để "nhậu chơi" với thái độ rất ḥa hoăn và lịch thiệp Trong bữa tiệc rượu chỉ có hai người, ông tâm sự: "Bác Sĩ có thể xem thường tôi nhưng thử nghĩ xem, tôi là một quân nhân thuần túy, phải trừng phạt họ để cảnh cáo chứ tôi cũng biết đau ḷng, và nếu ai cũng hủy hoại thân thể th́ lấy ai đánh Việt Cộng? "Khi đất nước mất rồi th́ chúng nó "cưa đầu" tất cả anh em ḿnh, thành ra cái chân của một thằng hèn đâu có nghĩa lư ǵ?" Tôi thật sự cảm động với thái độ hết sức lư lẽ của ông ta nên cũng đáp lại: "Tôi cũng suy nghĩ nhiều mấy ngày hôm nay, tôi hiểu và cảm phục Đại Tá nhưng mong Đại Tá cũng hiểu cho là những ǵ tôi được dạy dỗ từ trong gia đ́nh tới học đường đều là đúng và tôi không thể thay đổi cách suy nghĩ được" Đaị Tá Hồ Ngọc Cẩn đă đứng dậy bắt tay tôi rồi nói: "Tôi thành thật xin lỗi việc vừa qua, sáng mai nhờ Bác Sĩ tải thương binh này sang Quân Y Viện” Câu chuyện đă gần 40 năm mà mỗi tháng tư đến, tôi vẫn nhớ tới Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn như chuyện mới xảy ra hôm qua và rất khâm phục thái độ “quân tử” của ông Bây giờ nghĩ lại tôi vẫn tiếc là ngày đó ḿnh c̣n qúa trẻ đầy tự ái và cao ngạo. Đúng ra tôi phải t́m đến trước để nói chuyện với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn th́ mới phải lẽ ! Mong hương hồn Đại Tá xem đây là một lời tạ lỗi cuả tôi, dù có hơi muộn màng Bác sĩ Nghiêm Hữu Hùng Người Vợ Lính Ở Thủ Đức Đám cưới nhà quê. Chuyện người vợ Mùa xuân năm 1959. Họ đạo Thủ Đức có đám cưới nhà quê. Cô dâu Nguyễn thị Cảnh mỗi tuần giúp lễ và công tác thiện nguyện cho nhà Thờ. Chú rể là anh trung sĩ huấn luyện viên của trường bộ binh Thủ Đức. Cha làm phép hôn phối. Họ Đạo tham dự và chúc mừng. Bên nhà gái theo đạo từ thuở xa xưa. Bên nhà trai cũng là gia đ́nh Thiên Chúa Giáo. Cô gái quê ở Thủ Đức, 18 tuổi c̣n ở với mẹ. Cậu trai 20 tuổi xa nhà từ lâu. Cha cậu là hạ sĩ quan, gửi con vào thiếu sinh quân Gia Định từ lúc 13 tuổi. Khi trưởng thành, anh thiếu sinh quân nhập ngũ. Đi lính năm 1956. Mấy năm sau đeo lon trung sĩ. Quê anh ở Rạch Giá, làng Vĩnh Thanh Long, sau này là vùng Chương Thiện. Ngày đám cưới, ông già từ quê lên đại diện nhà trai. Đứng trước bàn thờ, cha xứ hỏi rằng anh quân nhân này có nhận cô gái làm vợ không. Chú rể đáp thưa có. Cha hỏi cô gái có nhận anh trung sĩ này làm chồng. No đói có nhau. Gian khổ có nhau. Cô gái Thủ Đức vui mừng thưa có. Anh trung sĩ Rạch Giá phục vụ trường bộ binh đi lễ nhà thờ gặp cô gái xóm đạo Thủ Đức nên kết nghĩa vợ chồng. Cô gái thề trước nhà Chúa, có cả họ Đạo chứng kiến. Cô đă giữ trọn đời làm vợ người lính. Từ vợ trung sĩ trại gia binh cho đến phu nhân đại tá trong dinh tỉnh trưởng. Cô theo chồng đi khắp 4 phương suốt 16 năm chinh chiến để rồi 30 tháng 4 năm 75 trở thành vợ người tử tội. Cô đem con trở về Thủ Đức lánh nạn chờ ngày chồng bị xử bắn. Dù thăng cấp, dù thắng hay bại, dù sống hay chết, chồng cô vẫn là người anh hùng. Cô măi măi vẫn là người vợ lính. Anh lính đầu đời chinh phu của cô lúc lấy nhau đeo lon trung sĩ và khi ra đi đeo lon đại tá. Thủy chung cô vẫn sống đời vợ lính. Chồng của cô là đại tá Hồ Ngọc Cẩn. Hiện nay cô vợ lính gốc Thủ Đức, sau khi t́m đường vượt biên, đem con trai duy nhất qua Bidong, Mă Lai rồi vào Mỹ sống ở Nam Cali. Cô may thuê. Bán quán nuôi con. Con trai lập gia đ́nh có 2 cháu. Người vợ lính năm xưa từ 75 đến nay, ở vậy thờ chồng đă trở thành bà nội ở chung một nhà với con cháu. Suốt đời vẫn nghèo, nghèo từ trung sĩ mà nghèo lên đại tá. Nghèo từ Thủ Đức mà nghèo qua Chương Thiện. Nghèo từ Việt Nam mà đem theo cái nghèo qua Mỹ. Bởi v́ suốt đời chỉ là người vợ lính. Một đời chinh chiến. Chuyện người chồng Hồ Ngọc Cẩn sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938. Xuất thân thiếu sinh quân Gia Định rồi nhập ngũ và lên cấp trung sĩ huấn luyện viên vũ khí tại trường bộ binh. Sau khi lập gia đ́nh có 1 con th́ anh trung sĩ t́m cách tiến thân xin vào học lớp sĩ quan đặc biệt tại Đồng Đế. Từ anh sinh viên sĩ quan Đồng Đế 1960 cho đến 15 năm sau Hồ Ngọc Cẩn trở thành đại tá tỉnh trưởng kiêm tiểu khu trưởng Chương Thiện, hầu hết cấp bậc đều lên tại mặt trận. Ông đă từng mang mầu áo của Biệt động quân và các sư đoàn bộ binh. Huy chương và chiến công nhiều vô kể. Suốt một đời chinh chiến từ trung đội trưởng lên đến trung đoàn trưởng, Hồ ngọc Cẩn tung hoành khắp Hậu giang và Tiền giang. Năm 1972 ông Thiệu cho lệnh toàn thể sư đoàn 21 từ miền Tây lên tiếp tay cho quân đoàn 3 giải tỏa An Lộc. Lại cho lệnh tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư đoàn 9. Tư lệnh quân khu, ông Trưởng nói với ông Lạc sư đoàn 9 đưa 1 trung đoàn nào coi cho được. Trung tá Hồ ngọc Cẩn dẫn trung đoàn 15 lên đường. Trung đoàn ông Cẩn phối hợp cùng nhẩy dù đánh dọc đường 13 tiến vào An Lộc. Anh đại úy đại đội trưởng của trung đoàn suốt mấy tuần dằng co với địch trước pḥng tuyến của tướng Hưng tư lệnh An Lộc, nhưng chưa vào được. Lính hai bên chết đều chôn tại chỗ. Thiết vận xa M113 của ta c̣n phải lui lại phía sau. Chỉ có bộ binh của trung đoàn 15 nằm chịu trận ở tiền tuyến. Anh sĩ quan kể lại, chợt thấy có một M113 của ta gầm gừ đi tới. A, tay này ngon. Chợt thấy một ông xếp từ thiết vận xa bước ra, phóng tới pḥng tuyến của đại đội. Nh́n ra ông trung đoàn trưởng Hồ Ngọc Cẩn. Ông quan sát trận địa rồi hô quân tiến vào. Cùng với tiền đạo của nhẩy dù, trung đoàn 15 bắt tay với lính pḥng thủ An Lộc. Sau khi B́nh Long trở thành B́nh Long Anh Dũng, ông Thiệu hứa cho mổi người lên 1 cấp. Trung tá Hồ Ngọc Cẩn ngoài 30 tuổi đeo lon đại tá trở về trong vinh quang tại bản doanh Sa Đéc. Rồi ông được đưa về làm tiểu khu trưởng Chương Thiện. Vùng đất này là sinh quán của ông ngày xưa. Cho đến 30 tháng 4-1975 Sài G̣n đă đầu hàng, nhưng Chương Thiện chưa nhận được lệnh Cần Thơ nên Chương Thiện chưa chịu hàng. Chiều 29 sang 30 tháng 4, tiểu khu trưởng vẫn c̣n bay trực thăng chỉ huy. Khi radio Sài G̣n tiếp vận về tin buông súng, các đơn vị bên ta ră ngũ. Lính tráng từ tiểu khu và dinh tỉnh trưởng tan hàng, đại tá tiểu khu trưởng Hồ Ngọc Cẩn bị lính cộng sản vây quanh khi c̣n ngồi trên xe Jeep với vũ khí, quân phục cấp bậc đầy đủ. Câu chuyện về giờ phút cuối cùng của người chồng, đă được người vợ kể lại cho chúng tôi. Thực là một kỷ niệm hết sức bi thảm. Giây phút cuối của Chương Thiện, Bà Cẩn với âm hưởng của miền quê Thủ Đức kể lại qua điện thoại. Cô Cảnh nói rằng suốt cuộc đời chưa ai hỏi thăm người thiếu phụ Thủ Đức về một thời để yêu và một thời để chết. Bà nói: “Kể lại cho bác rơ, những ngày cuối cùng nhà em vẫn hành quân. Đánh nhau ngay trong tiểu khu. Anh Cẩn vẫn c̣n bay hành quân. Nhà bị pháo kích. Tuy gọi là dinh tỉnh trưởng nhưng cũng chỉ là ngôi nhà thường. Chiều 30 tháng 4 mẹ con em theo các chú lính chạy ra ngoài. Đi lẫn vào dân. Ở Chương Thiện không ai biết em là vợ tỉnh trưởng. Ai cũng tưởng là vợ lính. Từ xa ngó lại mẹ con em thấy anh Cẩn bị chúng bắt giải đi. Bà con kéo mẹ con em t́m đường chạy về Cần Thơ. Chú lính nói rằng bà không đem con chạy đi chúng nó bắt th́ khổ. Em dẫn thằng con nhỏ chạy bộ. Mẹ con vừa đi vừa khóc. H́nh ảnh cuối cùng thằng con hơn 10 tuổi nh́n thấy bố ngồi trên xe Jeep, Việt cộng cầm súng vây quanh. Bước xuống xe, anh không chống cự, không vùng vằng, không nói năng. Đưa mắt nh́n về phía dân ở xa, giơ tay phất nhẹ. Như một dấu hiệu mơ hồ cho vợ con. Chạy đi. Đó là h́nh ảnh cuối cùng đă gần 40 năm qua. Từ đó đến nay mẹ con không bao giờ gặp lại. Thân nhân bên anh Cẩn, mẹ và các chị giữ không cho em và con trai ra mặt. Sợ bị bắt. Được tin anh ra ṭa nhận án tử h́nh. Rồi tin anh bị xử bắn. Thời gian anh bị giam gia đ́nh bên anh có đi tiếp tế nhưng không thấy mặt. Chỉ giao tiếp tế cho công an rồi về. Hôm anh bị bắn ở sân vận động Cần Thơ, gia đ́nh cũng không ai được báo tin riêng, nhưng tất cả dân Tây Đô đều biết. Mỗi nhà được loan báo gửi một người đi coi. Bà chị họ đi xem thằng em bị bắn. Chị kể lại là không khí im lặng. Từ xa, nh́n qua nước mắt và nín thở. Chị thấy chú Cẩn mặc quần áo thường dân tỏ ư không cần bịt mắt. Nhưng bọn cộng sản vẫn bịt mắt. Bác hỏi em, bà chị có kể lại rơ ràng ngày xử bắn 14 tháng 8 năm 1975. Mỗi lần nói đến là chị em lại khóc nên cũng không có ǵ mà kể lại. Chúng bịt mồm, bịt mắt nên anh Cẩn đâu có nói năng ǵ. Suốt cuộc đời đi đánh nhau anh vẫn lầm ĺ như vậy. Vẫn lầm ĺ chịu bị bắt, không giơ tay đầu hàng, không khai báo, không nói năng ǵ cho đến chết. Anh làm trung đội trưởng, đại đội trưởng, tiểu đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rồi đến tiểu khu trưởng. Báo chí, anh em nói ǵ th́ nói, anh Cẩn chả nói ǵ hết. Bác hỏi em là mồ mả ra sao. Em và con về nhà mẹ ở Thủ Đức. Gia đ́nh không cho em ra mặt. Bà chị và mẹ anh Cẩn đi xin xác không được. Chúng đem chôn ở phía sau Trung tâm nhập ngũ Cần Thơ. Mấy năm sau mới xin được đem về Rạch Giá. Rồi đến khi khu này bị giải tỏa nên lại hỏa thiêu đem tro cốt về nhà ông chú bên Long Xuyên. Ngày nay, em nói để bác mừng là sau khi vượt biên qua Mỹ em đă đưa di hài anh Cẩn qua bên này. Anh Cẩn bây giờ cũng đoàn tụ bên Mỹ với gia đ́nh. “ “Cô đi năm nào”, tôi hỏi bà Cẩn. “Mẹ con em ở Thủ Đức ba năm sau 75. Đến 78 th́ vượt biên qua Pulo Bidong. Ở trại 8 tháng th́ bà con bảo trợ qua Mỹ. Qua bên này ḿnh chả biết ai, không ai biết ḿnh. Cũng như bao nhiêu thuyền nhân, mẹ con ở với nhau. Em đi làm nghề may, rồi đi bán quán cho tiệm Mỹ. Bây giờ cháu trai duy nhất của anh Cẩn đă có gia đ́nh sinh được 2 con.” Chuyện đời người vợ lính thời chinh chiến với kết thúc bi thảm và anh hùng, tôi nghe kể lại thấy ḷng xót xa lắng đọng.Tôi bèn quay qua hỏi chị Cẩn sang đề tài khác. “Năy giờ nói toàn chuyện buồn, cô nhớ lại xem suốt đời từ đám cưới cho tới 75, cô có những kỷ niệm nào vui không.” Bà Cẩn ngừng lại suy nghĩ. “Em thấy năm nào tháng nào cũng vậy thôi. Toàn lo việc nhà, nội trợ nuôi con. Anh Cẩn đi đâu th́ mẹ con cũng đi theo. Từ trại gia binh đến cư xá sĩ quan. Chúng em không có nhà riêng, không có xe hơi, không có xe gắn máy. Từ Sa Đéc trung đoàn 15 qua đến tiểu khu Chương Thiện, toàn là ở trại lính”. Tôi hỏi tiếp: “Cô có đi dự tiệc tùng, mừng lên lon, thăng cấp, dạ hội ǵ không?”. “Không, em chả có đi đâu. Ở Chương Thiện em cũng không đi chợ. Dân chúng cũng không biết em là ai. Mua bán ǵ em về Cần Thơ, đông người, cũng chả ai biết em là ai. Em cũng không có nhà cửa nên cũng không mua sắm đồ đạc. Lương nhà binh cũng chẳng có là bao. Em cũng không ăn diện nên chẳng có nhiều quần áo. Năm 1972 ở An Lộc về, anh Cẩn mang lon đại tá không biết nghĩ sao anh nói với em, vợ chồng chụp được một tấm h́nh kỷ niệm. Đây là tấm h́nh gần như duy nhất. Xin bác dùng tấm h́nh này của nhà em mà để lên tấm bia lịch sử”. Tôi nói rằng, tấm h́nh của cô và anh Cẩn rơ ràng và đẹp lắm. Hoàng Mộng Thu có đưa cho tôi xem. Chúng tôi sẽ dùng h́nh này. Nhưng tôi vẫn gặng hỏi. “Thế bao nhiêu lần anh thăng cấp cô có dự lễ gắn lon không?”. “Em đâu có biết. Chỉ thấy anh Cẩn đi về đeo lon mới rồi cười cười. Cũng có thể gọi là những giây phút hạnh phúc của đời nhà binh”. “Thế cô chú ở Thủ Đức có khi nào đi chơi Vũng Tàu tắm biển không?”. Bà Cẩn thật thà nói rằng. “Khi anh Cẩn học ở Đồng Đế th́ em và con có ra thăm Nha Trang nên thấy biển. C̣n chưa bao giờ được đi với anh Cẩn ra Vũng Tàu. Sau này đến khi vượt biên th́ mẹ con em mới thấy biển Vũng Tàu…” Trong số một triệu chiến binh Việt Nam Cộng Ḥa, dường như sĩ quan, anh nào cũng có 1 lần đi với vợ con hay người yêu trên băi biển Vũng Tàu. Chỉ có hàng binh sĩ, chỉ những người lính là chưa có dịp. Hồ Ngọc Cẩn ở Rạch Giá suốt đời chưa đem vợ Thủ Đức đi Vũng Tàu. V́ vậy chị Cẩn suốt đời vẫn chỉ là vợ lính. Trong quân đội, dù là tướng tá hay sĩ quan, anh nào mà chả có thời làm lính. Sau đó mới làm quan. Chỉ riêng cô Nguyễn thị Cảnh, vợ đại tá Hồ Ngọc Cẩn là người đóng vai vợ lính suốt đời. Những ngày vui nhất của chị là thời gian được làm vợ anh trung sĩ hiền lành của trường bộ binh Thủ Đức. Ngày đó đă xa rồi hơn nửa thế kỷ, ở bên kia địa cầu, trên ngọn đồi Tăng Nhơn Phú, có vợ chồng anh lính trẻ mỗi sáng chủ nhật cầm tay nhau để đi lễ nhà thờ. Giao Chỉ, San Jose
|