Đại Tá Đinh Thạch On

Khóa 1 Quan Sát Viên khai giảng vào đầu tháng 10-1952, lúc Khóa 1 Hoa Tiêu gần măn khóa, chỉ c̣n huấn luyện giai đoạn chót nữa mà thôi. Khóa 1 Quan Sát Viên dài 6 tháng, gồm 6 sĩ quan học viên: Phùng Văn Chiêu, Nguyễn Đ́nh Giao, Lê Minh Luân, Đỗ Khắc Mai, Đinh Thạch On và Trần Phước.

Anh Đinh Thạch On , học viên khóa sinh trẻ tuổi nhất lớp, hiền lành và rất ít nói không những trong khi giao tế mà ngay cả lúc thi hành công tác cũng vậy. Tuồng như bắt buộc lắm anh mới đối đáp, anh ăn nói rất nhỏ nhẹ. Không những ít nói mà anh On c̣n ít cười nữa. Anh cười bằng đôi mắt hơn là bằng miệng, nếu có cười, anh chỉ cười nửa miệng thôi, dẫu câu chuyện có vui cách mấy. Nhớ những khi chúng tôi thay phiên công tác đang bay trên trời cũng chỉ nói hết sức ngắn gọn, đúng như áp dụng văn thư quân đội vậy.: rơ ràng, chính xác, ngắn gọn. Chẳng hạn như:

-A lô Phi Yến 2, đây Phi Yến 3, tôi đến thay anh đây.

-A lô Phi Yến 3, Phi Yến 2, tôi thấy anh rồi. Khoảng một giờ nữa sẽ có 3 chim ưng đến giúp anh.

-Phi Yến 3 hiểu. Phi Yến 2 anh về b́nh an.

-Cám ơn.

Anh On người vậm vỡ khỏe mạnh suốt thời gian học, chiều nào anh cũng ở trần trùng trục tập thể dục và tấm biển, đây là một trong những thú vui thích lành mạnh của anh. Không giống như một số anh em học viên khác trong đó có tôi, có thói xấu, ngoài giờ học thường hay châu đầu vào bàn vuông, xoa mạc chược.

Anh On học hành rất đàng hoàng, bởi vậy, anh là người thành công nhất của khóa chúng tôi sau này về chức vụ cũng như chuyên môn. Anh đă trở thành hoa tiêu vận tải và giữ chức vụ Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Không Quân cho đến ngày mất nước. Nhớ tối ngày 28-4-75, khi hay tin có lệnh di tản gia đ́nh quân nhân ra đảo Phú Quốc, tôi đă đến Bộ Chỉ Huy Sư Đoàn 5 Không Quân để xin cho gia đ́nh được di tản, nhưng không được cố Chuẩn Tướng Phan Phụng Tiên, Tư Lệnh Sư Đoàn chấp thuận. Tôi thấy anh On, Tư Lệnh Phó, ngồi bên cạnh, nhưng chúng tôi chỉ trao đỗi nhau bằng ánh mắt thay cho lời nói, v́ tôi biết rất rơ tinh thần kỷ luật của anh On, chuyện ǵ cấp trên của anh không chấp thuận th́ không bao giờ anh vượt quyền. Có lẽ v́ vậy mà anh On được ở yên ở chức vụ Tư Lệnh Phó, một chức vụ mà nhiều hoa tiêu vận tải kỳ cựu hơn anh rất mong muốn. Thông cảm như vậy nên không bao giờ tôi trách anh On.

Sau này lưu lạc, chúng tôi gặp nhau tại nhà anh chị On ở Grand Prairie, gần Dallas, Texas, lúc ấy anh đang bay chở hàng hóa cho một công ty vận tải Hoa Kỳ. Tuy chúng tôi ở cách xa nhau hằng 4,5 giờ lái xe hơi, nhưng chúng tôi thường tham dự đám cưới qua lại của các con cái. Có lần chúng tôi ăn cơm chung tại một nhà người bạn vận tải ở Houston, lần gặp gợ nào tôi cũng không bao giờ nhắc lại chuyện củ. Nhưng chính chị On đă phiền trách anh On đă không đưa gia đ́nh bà con bên vợ ra khỏi nước. Vẫn bổn tánh cố hữu, anh On làm thinh, không nói một lời. V́ muốn chị On thông cảm, lúc đó tôi mới kể lại chuyện trước kia tôi xin di tản gia đ́nh ra Phú Quốc mà không được, để chứng minh rằng anh On không có thực quyền trong những ngày cuối mất nước. Và anh là con người kỷ luật, ngay vào những giờ phút nguy nan, anh vẫn tôn trọng triệt để lệnh cấm trại, luôn luôn ở cạnh vị Tư Lệnh, cấp chỉ huy trực tiiếp. Đă không có thực quyền lại không có th́ giờ, th́ làm sao chu toàn cho tất cả bà con nội ngoại được, và nhứt là t́nh h́nh xăy đến quá đột ngột, ngay gia đ́nh tôi cũng là một nạn nhân, con gái đầu ḷng của chúng tôi cũng bị kẹt lại, huống hồ là bà con xa.

Nay các con cái anh chị On khôn lớn đều lập gia đ́nh và thành tài, có mấy người con trai đỗ đạt y khoa bác sĩ, nên anh chị đă về hưu vui thú tuổi già, bồng bế các cháu nội ngoại và hiện đang sinh sống tại vùng Panama City Beach, Florida, nắng ấm quanh năm, rất thích hợp với những người già.

Nguồn: Khóa 1 Hoa Tiêu


Đại Tá Đinh Thạch On, Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Không Quân là vị Sĩ Quan cao cấp trong quân chủng rất siêng năng tập luyện Vơ Thuật, Ông đă có Đệ Tam Đẳng Huyền Đai Thái Cực Đạo và cũng là Vị Vơ Sư Aikijiujitsu - Aikido (Hiệp Khí - Nhu Thuật ) của Vơ Đường từ Năm 1972-1975. Ông là Vị Ân Nhân rất đặc biệt có sinh hoạt gắn bó với toàn thể Anh - Em Vơ Sư, Vơ Sinh thuộc Vơ Đường Thần Phong và với tư thế Huynh Trưởng, Ông luôn luôn quan tâm giúp đỡ và bảo trợ cho Vơ Đường Thần Phong tiến triển với mọi t́nh huống từ năm 1966-1975.

Nguồn: nhatbaovanhoa.com


Văn nín thinh. Tôi lái xe ḷng ṿng, lang thang phi đạo chủ ư vớt vát có Tàu nào cất cánh muộn th́ quá giang. Mọi Tàu để ngơi nghỉ lạnh lùng nơi băi đậu. Tôi chán nản quay xe ra phố. Trên đường rời khỏi SĐ5KQ, ngang qua văn pḥng Tư Lệnh Phó SĐ, thấy ánh đèn, cửa mở, tôi đậu xe bước vào gặp Đinh Thạch On, ngồi thẫn thờ sau bàn giấy.

Tôi hỏi :

- On ! Sao c̣n ngồi đây? Tất cả bỏ đi hết rồi, anh cũng đi đi thôi. Đinh Thạch On lúng túng, không dứt khoát, dường như có cái ǵ dùng dằng giữ ảnh lại. Tôi hối thúc:
- Đi đi toa. Ở lại chỉ c̣n tôi với anh là lớn cấp nhất, Cộng nó nắm được, nó đem tôi và anh qùy trước sân cờ “Cắc bùm” tế cờ đó. Đinh Thạch On như người mất thần:
- C.130 tụi nó lấy đi trốn cả bầy rồi.
- C̣n C.47 mà. Tôi nhắc nhở On.
On thở dài:
- Đă lâu lắm tôi không c̣n lái C.47. On vốn ít nói, hiền như cục đất nên chỉ trả lời vừa đủ.

Tôi khích lệ:

- Dẫu sao anh cũng đă có lái nó rồi. Quên chút lúc đầu, ôn lại trong đầu anh lại nhớ ra đó mà. Anh cứ lái, tôi chấp nhận để anh đập máy bay giết tôi hơn là để tụi Cộng hạ nhục tại sân cờ trước hàng quân của ḿnh. Chết v́ máy bay rơi, chết mau. Chết với quân khát máu, chết ṃn chết tủi đó bố ơi.

Đang cố thuyết phục ông TLP/SĐ, th́nh ĺnh nghe tiếng xôn xao và tiếng động cơ nặng nề gầm gừ. Ngó ra ngoài một chiếc M113 đang lùi, thụt lùi. Tôi vội bước ra chận lại hỏi:

- Có chuyện ǵ ? Tại sao lùi?

Trưởng xa, một KQ trả lời:

- Chúng em thuộc Pḥng thủ, tụi Cộng tiến xát rào, chúng em rút sâu về.

Tôi phản ứng lấy lệ v́ nghĩ ḿnh cũng đang thuyết phục rút th́ rầy rà chuyện rút với không làm ǵ nữa:

- Rút đi đâu nữa!

Nói xong, buông xuôi, tôi quay vào nói với On:

- Anh nghe rồi đấy chứ, không thể chần chờ hơn được đâu. Lúc ấy On mới nghiêng người cúi xuống, kéo học tủ, lôi ra cuốn kỹ thuật C.47 lật từng trang và nói:
- Để moa ôn lại chút đă.

Cứ thế On ngồi thản nhiên học hết cuốn kỹ thuật. Một phút lúc ấy là một thế kỷ đối với tôi. Tôi như ngồi trên lửa. Bên ngoài M.113 lui tới lui lui, quay ngang, quay dọc, binh sĩ chạy xuôi chạy ngược, tiếng súng lẻ tẻ đây đó. Tôi ngồi trước bàn giấy On, đăm đăm ngó ra ngoài cửa chính, tay nắm chặt tiểu liên, cùng với Văn, sẳn sàng nhả đạn, chờ cho On học bài xong. Cuối cùng On cũng đứng dậy theo tôi đi ra t́m tàu thoát hiểm.

Chúng tôi ra thẳng băi đậu C.47. Leo lên chiếc đầu mở máy, máy gầm gừ, cánh quạt quay từng ṿng uất nghẹn chẳng chịu vung ḿnh đoạt gió. Leo xuống khám xăng, xăng c̣n, khám máy, máy lủng chảy dầu, có lẽ đă trúng hỏa tiễn hay miểng bom thù. Leo lên chiếc khác, chiếc đó lại không xăng. Cứ thế lếch thếch kéo nhau từ ụ C.47 này qua ụ C.47 khác giữa cơn nắng trưa. Tàu nào cũng ỳ ra chẳng chịu chuyển ḿnh.

Ngay lúc ấy một trực thăng TQLC Mỹ bay đứng trên đầu chúng tôi, nghiêng ḿnh quan sát. Tôi ra hiệu, yêu cầu đáp bốc chúng tôi. Quân “Bạc nghĩa” quay ngoắt bay đi bỏ mặc lũ bại quân tự liệu. Ai bảo có cánh mà không bay lại nhờ người cơng. Chúng đâu có hiểu “Phụng Hoàng” đang thất thế sa cơ v́ cộng quân bế mất huyệt đạo nên mới nhờ “Gà Mỹ” mượn sức qua cơn khốn khó. Đâu ngờ cái giống Gà này nó “xỏ rét”, nó “xỏ lá”, xỏ lá kềnh.

Thật ra ḿnh cũng chẳng nên trách người. Có trách nên trách chúng ḿnh đă thiếu hẳn một kế hoạch rút quân chu đáo, an toàn và trật tự. Trong mọi cuộc hành quân th́ hành quân tháo lui là khó khăn và gay go nhứt, cho nên cần được nghiên cứu tỉ mỉ, ước tính và tiên liệu thật sát, chuẩn bị thật chu đáo, thi hành thật cẩn trọng. Thế mà ḿnh lại vội vă, “Quân hồi vô phèng” mạnh ai nấy rút chẳng ra cái “Thống chế” ǵ để cho cả Bạn lẫn Thù coi khinh coi rẻ. Xấu hổ ! ! !

Sau phút ngỡ ngàng v́ “T́nh Phụ” do người anh em bất nghiă bỏ đi, Đinh Thạch On chán nản ra mặt vốn dĩ dùng dằng chẳng muốn đi từ đầu th́ đây cũng là cái cớ buông xuôi cho tiện. On không muốn t́m tàu thêm nữa. Tôi bắt đầu lo cho kiếp cá chậu chim lồng, cộng quân cắt tiết. Tôi mở bóp lấy mọi giấy tờ, thẻ kiểm tra, chứng minh thư Phủ đầu rồng, thẻ mang vũ khí tùy thân hủy bỏ chỉ giữ lại thẻ bài kim khí có ghi rơ số quân, loại máu, đeo ḷng tḥng trên cổ (hiện tôi c̣n giữ làm kỷ niệm, nhớ lại một mùa xuân để mất).

Hủy xong giấy tờ, tôi ngó mông lung qua dẫy phi cơ lặng lẽ bên đường, ḷng hướng về Mẹ già chẳng biết giờ này ra sao? Tôi không khóc được. Tôi buồn thê thảm. May hừng sáng nhân lúc cộng quân tạm ngưng pháo kích, tôi đă bắt liên lạc được với vợ chồng người em trai cư ngụ vùng Chí Ḥa, yêu cầu chăm nom Mẹ cho tôi được yên ḷng trong phút tử sinh ly biệt đang chập chờn bên tôi.

Vợ con tôi!Trước đó it ngày, cô em vợ, công dân Mỹ, đă từ Mỹ bay về lập thủ tục giấy tờ ngoại giao trong đó có cả tôi, bốc đem đi vội vă. Tôi đă từ chối đi theo v́ nghĩ rằng nước mới trong dầu sôi chưa mất, quân trong rối rấm chưa tan. Vợ tôi vùng vằng:

- Nếu anh không cùng đi th́ Em và các con cùng ở lại.

Tôi vội khuyên:

- Em hăy đem con rời khỏi đây và nuôi nấng dạy dỗ chúng nên người cho anh. Anh đi bây giờ là anh bỏ ngũ đó. Anh không muốn muôn đời lưu xú. (Cũng v́ cái lẩm cẩm này mà tôi được Bà Xă tặng cho biệt hiệu: Ông già lẩm cẩm mỗi khi nàng nhắc đến phút luyến lưu của ngày buộc phải để nước lại sau lưng, ra đi t́m một ngày mai ít buồn, ít tang tóc hơn cho ḿnh và cho con cháu). Vợ tôi không chấp nhận lập luận của tôi:

- Chồng đâu, vợ đó. Em không đi.

Tôi làm mặt giận:

- Em phải nghe anh!

Rồi tôi dỗ dành:

- Em hăy đi, đem con về chốn an toàn, như thế anh được rảnh tay, đúng lúc phải đi anh sẽ đi kịp lúc, không phải t́m Em và các con, e rằng như thế quá muộn và quá hiểm nguy.

Vợ tôi ngần ngừ, suy tính. Các con tôi c̣n quá thơ dại, đứa lớn chưa đầy 7 tuổi, đứa bé mới hơn năm c̣n bế ẫm, ngơ ngác hết nh́n cha đến nh́n mẹ. Tôi cầm tay vợ đoan chắc:

- Em đi bây giờ, chúng ḿnh c̣n có cơ hội gặp nhau. Nếu em và các con ở lại, chắc chắn sẽ ly tan v́ lửa đạn vô t́nh chẳng chừa ai, tội nghiệp các con v́ ḿnh mà lây họa.

Xuôi ḷng, vợ tôi gạt nước mắt dẫn con cùng gia đ́nh bên ngoại các cháu qua DAO nhập đoàn di tản có trật tự. Gia đ́nh bên nội các cháu (Mẹ tôi, Em tôi, cháu tôi) đă nằm lại chịu chung số phận với con dân miền Nam bất hạnh.

Đang để hồn vấn vương trong đau thương, tuyệt vọng, tôi chợt thấy một C.47 óng ả phơi ḿnh bên ụ hangar trước mặt, hàng rào kẽm gai khóa kín, liền vội bảo On:

- Có chiếc C.47 kia trông c̣n nguyên vẹn. Hăy qua xem.

On lắc đầu:

- Cũng “dzậy” thôi !

Tôi chưa hết hi vọng, c̣n nước c̣n tát, tôi cương quyết rảo bước qua mau. On không theo, chẳng ai buồn theo. Tới nơi, tôi loay hoay gỡ kẽm gai để tiếp cận quan sát con tàu cuối băi và cũng là cuối cùng. Một Hạ sĩ quan đă theo chân tôi hồi nào không hay, vội tiếp tay gỡ kẽm gai kéo qua một bên.

Tôi hỏi nhỏ:

- Anh chuyên môn ǵ ? Có biết ǵ về phi cơ ?

Người Hạ sĩ quan kiêu hănh trả lời:

- Em là cơ phi.

Tôi mừng rỡ:

- Em hăy tiền phi, xét t́nh trạng động cơ và xăng nhớt. Mau đi em !

Chú em này thật rành việc. Chú thoăn thoắt nhảy lên cánh, mở nấp xăng miệng reo to:

- Mucho ! Mucho ! Ư nói xăng đầy.

Tôi quay ra ngoài gọi to, ngoắc Đinh Thạch On qua mở máy thử. Tôi chỉ là Phi hành dẫn lộ (Navigator, KQ ḿnh gọi là điều hành viên, cái tên chẳng phi hành tí nào!), không có “thợ lái” th́ “thợ tính gió chỉ đường mây” cũng chỉ là “loài Ḅ sát”. Sau khi biết chắc phi cơ đầy xăng, Cơ phi nhảy xuống kiểm soát động cơ, đến khi mở cửa lên tàu mới vỡ lẽ cửa khóa với cái khoá tổ bố, liền thất vọng kêu lên:

- Cửa tàu khoá làm sao đây ?

Tôi chưa kịp phản ứng th́ một Binh nh́ cầm M.16, chẳng biết đă có mặt ở đó từ hồi nào, có lẽ chú ta canh gác sớ rớ ở đây mà v́ bận tâm với kẽm gai tôi không thấy, hô to:

- Để em bắn bể khoá.


Nói xong chú ta lên đạn, đưa súng chĩa vào ở khoá. Tôi thất kinh quát lớn:

- Đừng bắn, nguy hiểm. Ḿnh c̣n một tàu này thôi.

Chú lính xững sờ nh́n tôi:

- Không phá cửa làm sao lên?

Tôi vội giải thích:

- Em bắn th́ được nhưng có biết đạn đạo đi đâu không. Nếu đường đạn đi cắt đứt các giây “Cable” điều khiển cánh bay th́ tàu làm sao bay được nữa. Chú em nầy vẫn ương chưa chịu hiểu. Tôi nghiêm nét mặt:

- Chú chỉ huy hay tôi. Nếu c̣n coi tôi là cấp chỉ huy th́ hăy nghe tôi. Thật ! vào lúc hàng quân tan ră muốn chỉ huy được quả muôn phần khó khăn. Quay qua Cơ phi tôi bảo:

- Em hăy phá cửa gió cockpit chui vào, luồn ra sau mở chốt cửa nhảy dù là mọi người lên được.

Cơ phi làm theo ư tôi, cửa dù C.47 mở rộng vào trong. Tiếng reo vang dậy, mừng vui. Trời ơi ! Người đâu mà lắm thế, hồi năy có bao nhiêu đâu, hết đợt này, đợt khác ùn ùn tay sách nách mang lên tàu.

Tôi đứng dưới trông chừng, chờ mọi người lên hết th́ đột nhiên một chiếc xe Jeep rít thắng bên tôi, một Sĩ quan vận phi bào người đẫy đà, khỏe mạnh, nhảy vội xuống miệng nói hấp tấp:

- Cho chúng em đi với.

Tôi liếc lên Jeep thấy có vợ con, tôi vội hỏi:

- Anh có lái được C.47 không?

Sở dĩ tôi hỏi câu này v́ tôi vẫn ngại Bố On một ḿnh không biết xoay trở ra sao, nếu thêm co-pilot th́ cũng chắc dạ phần nào.

Tươi nét mặt, cậu Sĩ quan hào hoa tự tin:

- Thợ ! Thợ C.47 là em ! Em, Đại úy Quư C.47 đây.

Tôi đă rời Liên Phi Đoàn Vận Tải từ lâu, từ hồi cụ Ngô c̣n chấp chánh, tôi đâu có biết Đại úy Qúi là ai, nhưng điều chắc là tôi đă có một Hoa tiêu lăo luyện tiếp tay với con chim già mệt mỏi Đinh Thạch On rồi. Tôi cười vỗ vai thân mật:

- Lên đi mà tiếp tay với Tư lệnh phó của anh trên đó. Trông cho mọi người lên hết, tôi mới leo lên sau. Bước lên khỏi bậc thang cuối, ngước mắt nh́n lên: Trời! Người, hành trang, hỗn độn, ngổn ngang, chật hơn nêm cối, chẳng chỗ len chân. Nh́n kỹ mới vỡ lẽ chiếc C.47 này là loại đặc biệt trang bị giường ngủ, bàn làm việc dành cho Tướng Tư lệnh vùng II. Giờ tôi đă hiểu v́ sao mà nó ngoan ngoăn nằm im không ai đụng tới, xăng nhớt đầy đủ, khóa trước khóa sau.

Cái số tôi cũng lạ, suốt 25 năm quân ngũ chỉ chạy hiệu, bỗng dưng vào ngày mạt vận lại được tặng “sao” rồi “Tư lệnh Vùng” (Tư lệnh trên chiếc phi cơ này thôi) điều động một dúm bại quân trốn chạy. Chẳng biết đáng cười hay đáng khóc!
Phi cơ trang bị nặng nề nay lại đầy khách quư, quá tải là cái chắc. Nhẩm đếm đầu người, tất cả 76 người kể cả phi hành đoàn (2 hoa tiêu 1 cơ phi). On nh́n tôi lắc đầu. Tôi nh́n On ngầm hỏi có bay nổi không? On yêu cầu xuống bớt (lại cảnh xuống không xuống) không một ai nhúc nhích. Tôi thở dài, hiểu rằng C.47 Full combat load cũng chỉ chở được tối đa 41 người với vũ khí trang bị. Đằng này tàu đă trang bị giường sắt, tủ sắt, bàn sắt, ghế sắt, hằm bà làng, lủng ca lủng củng lại c̣n đèo theo 76 mạng với đủ tài sản thiết thân th́ làm sao cất cánh nổi đây! Tôi nói dỗi:

- Nếu không ai xuống, tôi xuống. Có ai theo cùng không?

Tôi nói mặc tôi. Tôi đảo mắt nh́n mọi người. Mọi người đều cúi xuống tránh ánh mắt tôi. Tôi quá thất vọng, len chân bước về hướng cuối tàụ Đặng Duy Lạc nắm tay tôi kéo lại, ảnh nhứt định không cho tôi rời tàu. Giờ tử ly này, ai đi ai ở, ai nỡ bỏ ai! Một chuyến tàu suốt cũng đành xuôi thôi !

On đă quay lên buồng lái giúp Quí quay máy. Tôi ngồi phịch xuống ghế, đâu mặt với Lạc, phó mặc sinh mạng trong tay Đức Cao Sanh.

Máy nổ, một vừng khói trắng tỏa lên: Máy một rồi máy hai. Hoa tiêu kiểm soát phi cụ, phi kế. Tàu c̣n trong ụ đậu th́ “Đoàng” pháo cộng đă nhắm bắn tới. Không chờ nóng máy, Quư-On vọt ra phi đạo cất cánh khẩn cấp.

Chở nặng phi cơ cần đường dài, chưa đủ lực hổng cẳng Quư-On đă kéo vội, cưỡng ép con tàu bốc lên v́ một pick up truck ai đó đă bỏ nằm chắn ngang đường. Con tàu chao đảo dường như bánh đáp đă đụng pick up. Tàu gầm dữ dội, không lên cao nổi, bê bê về phía hangar. Nh́n qua cửa sổ tôi thấy hangar đến gần. Tôi chỉ kịp nói với Đặng Duy Lac vừa đua mắt cho Lạc nh́n ra:

- Niệm Phật đi, Một, hai, ba !

Tất cả vẫn êm rụ Phi cơ vừa vượt khỏi nóc hangar SĐ trong gang tấc. Tôi vừa thở phào chợt thấy có người đang ôm cứng ngang lưng tôi, đầu húc sâu vào bụng tôi. Tôi vội gỡ ra mới biết đó là Thiếu tá Nguyễn Kim Hằng (cựu vô địch bóng bàn).

Hằng bẽn lẽn cười nh́n tôi nói:

- Ông là cấp chỉ huy của em, nếu phải chết, em cũng được chết trong ḷng của cấp chỉ huy. Gớm, chí t́nh thế ! Quư hóa thế !

Tôi nghi ngờ cái “Huynh đệ chi binh” này.

Tôi cười nói:

- Chớ không phải cậu muốn mượn đỡ cái bụng mềm mại của tôi làm cushion đỡ cho cái đầu của cậu khỏi bể nếu chẳng may phi cơ kềnh ra đất.

Hằng chữa thẹn:

- Đâu có! Người cứ nghi oan cho em út. Thương Người lắm, thật mà. Tôi gục gặc:
- Cám ơn, cám ơn ! Hân hạnh cho “qua” quá! Đặng Duy Lạc nghe mẩu đối thoại yêu nhau chí t́nh của đôi quân nhân cùng chung hoạn nạn, cười vỗ vai Hằng:
- Thôi được rồi.

Phi cơ vẫn là là bay không cao hơn ngọn cây là bao. Trong pḥng lái có tiếng vọng ra:

- Nặng quá, tàu lên không nổi, yêu cầu vứt đồ cho nhẹ.

Tôi lập lại ư trên. Không ai chịu rời tài sản của ḿnh. Người ta thường nói “lấy của che thân” nhưng nơi đây lại “lấy thân che của”! Các cụ thường dạy, gặp cơn nguy đe dọa đến tính mạng th́ “bỏ của chạy lấy người”, nơi đây th́ “Thà chết c̣n hơn”!

Tôi chẳng có ǵ đem theo ngoài nón sắt và aó giáp. Tôi đứng dậy nêu gương, mở cánh cửa nhỏ bên hông tàu nơi thường dùng để thả truyền đơn, ném nón sắt ra ngoài. Phụt! nón bọc gió, giật vụt bay về phía sau qua cánh đưôi. Tôi thấy quá nguy hiểm, nếu tôi vứt nốt áo giáp, áo bọc gió đập vào đuôi lái, chắc chắn tàu không thăng thiên mà độn thổ đó.

Sau cái nón sắt vụt bay tôi chẳng tha thiết lắm đến cái mời các anh em đồng hành “dzô ta” cùng vất cho nhẹ con tàu. Cứ khỏi ngọn cây, Tàu là là bay qua vị trí Cộng quân thế mà chúng tôi chẳng trúng đạn thù. Có lẽ tụi chúng bắn quá dở nên tàu lặng lờ lấy hướng Côn Sơn là nơi điểm hẹn của Đệ Thất Hạm Đội bốc quân bại tẩu rời khỏi non sông yêu dấu, một cách an toàn.

Côn Sơn đă ẩn hiện trước mắt, tôi bước vội lên pḥng lái nhắc khéo On:

- Cẩn thận ! Trước khi đáp, quan sát kỹ xem cờ Vàng hay cờ Đỏ. Láng cháng Mỹ đâu không thấy lại bị “nón cối” mời vào bóc lịch thay nó đó.

Thợ Lái ḿnh chẳng quan ngại xa xôi. Cái làm họ bận tâm không phải “Nón cối” mà là đáp rồi nếu phải cất cánh lại th́ thật là Tử v́ sân Côn Sơn quá ngắn so với cái quá tải của con tàu.

Lượn một ṿng thấp: Phi cơ phe ta đậu đầy, ngổn ngang chiếc dọc chiếc xuôi, hỗn độn vô cùng. Các anh em nhanh chân tới trước chẳng hề nghĩ cho các anh em chậm chân đến sau! Chúng tôi đành quay trở lại bay về đất Mẹ, nhắm SĐ4KQ B́nh Thuỷ lướt tới. Vào Vùng Không lưu, liên lạc đài Kiểm soát, một tiếng vang trong máy: Căn cứ đang bị pháo địch uy hiếp. Tôi đề nghị bay qua UTAPAO, Căn cứ B.52 của KQ chiến lược Mỹ bên Thái Lan. Mấy anh em cấp nhỏ nhao nhao:

- Đi Singapore ! Đi Singapore !

Tôi phản đối và giải thích:

- Chúng ta không nên đi Singapore , Chính quyền Singapore khó tin lắm. Mới ngày qua, một C.130 của SĐ bị đánh cắp trốn qua đó đă bị Chính quyền sở tại bắt giữ, định dẫn độ cả tàu lẫn người về cho VC xử lư hầu làm quà thỏa hiệp. Chỗ bảo đảm nhất là phi trường B.52 vừa dài vừa đủ tiện nghi, an phi bậc nhất và an ninh cũng bậc nhất. Mẽo cũng không đến nỗi quá hèn đem ḿnh bán cho đối phương. Tất cả đă thôi lao xao. Tôi hỏi có ai mang bản đồ tiếp cận UTAPAO không v́ pḥng lái vừa than thiếu bản đồ vùng đó. Một Trung úy vội lục cặp phi hành lôi ra xấp tài liệu và nói lớn:

- Có đây, đủ cả đây.

Tôi cầm lấy trao cho cơ phi đem lên cho Quí-On nghiên cứu phi tŕnh đồng thời hỏi nhỏ chú em:

- Ở đâu mà sẵn thế?

Chú ta tỉnh bơ trả lời:

- Chúng em cũng định “chuồn” đi nhưng v́ phi cơ rơi khi cất cánh nên phải theo chiếc nầy.
- Phi cơ rơi không chết à?

Tôi hỏi hơi phi lư v́ đă có sao th́ đâu c̣n đối đáp với tôi được nữa.

Chú em cười:

- Không ai chết, chẳng ai què, chỉ rêm ḿnh chút chút!

Đúng vậy, lúc tôi c̣n thẫn thờ t́m phi cơ ra đi th́ Th/sĩ Văn có kéo tay tôi chỉ lên trời, hốt hoảng:

- Coi ḱa ! Chiếc phi cơ đang giẫy giẫy như diều đứt dây.

Tôi ngó theo tay chỉ, quả nhiên là chiếc Caribou (có lẽ là chiếc đă bỏ tôi và Văn ở lại) đang bị triệt nâng vụt rơi xuống, bụi cát lầm lên mù mịt.

Tôi ghé tai Văn:

- Chiếc Caribou hồi sáng đó. Nếu ḿnh được đi th́ nay đă chung số phận rồi.

Nói xong tôi quay đi nghĩ đến các anh em xấu số đă bỏ tôi sáng nay và giờ đây đă xa tôi thật rồi! Ḷng tôi chợt thắt lại, thương cho kiếp người mới đó không c̣n đó. Tôi đă lầm. Chẳng một ai xa tôi. Tất cả đă cùng tôi trên chiếc C.47 định mệnh nầy, đang trôi về nơi vô định xa xôi. Bây giờ tôi chợt hiểu v́ sao lúc t́m C.47 thoát hiểm tôi chẳng có bao ngoe mà nay sao lại nhiều thế. Th́ ra các Yên hùng không gian chưa bị Ngọc Hoàng rũ sổ đang đáp chuyến bay cuối chầu cùng tôi. Duyên nợ bên nhau đâu dễ dứt!

C̣n đang miên man nghĩ đến cái duyên, cái nợ tôi chợt thấy mặt Nguyễn Kim Hằng dính đầy tro lẫn bụi, nhem nhuốc. Tôi ghé tai hỏi nhỏ:

- Cậu cũng trong đám “Bất tử” Caribou đó à?

Hằng gật đầu không đáp.

Thật t́nh ! Con người sống chết có số. Cái phút nguy hiểm nhất của nghiệp bay là cất và hạ cánh, nếu tay nạn xảy ra lúc đó th́ yên trí sẽ được “TRUY THĂNG'.

Thế mà tàu tôi đụng khi cất cánh, Tàu hắn rơi khi hạ cánh vội, chúng tôi vẫn sống nhăn. Tiếng máy phi cơ nổ đều, con tàu chở “Vịt” (chạy như vịt) bồng bềnh trong gió lướt về không phận Thái Lan. Mọi người đều đều hơi thở, mắt mơ màng hoặc khép kín thả hồn chơi vơi về với tương lai mù mịt, bỗng nhiên cửa pḥng lái bật mở, cơ phi hốt hoảng:

- Hồi năy ai coi xăng ?

- Sao? Tôi bật dậy hỏi ngược. Hết xăng à ?

Cơ phi ú ớ. Tôi liên tưởng đến tàu cạn xăng, nh́n ra ngoài, mênh mông trời nước. Tim tôi thắt lại, chẳng lẽ số ḿnh phải dứt hôm nay! Chợt tôi nhận ra chú cơ phi này là người check xăng sáng nay và đă reo to Mucho, mucho. Tôi chỉ anh và nói:

- Chính anh là người coi xăng mà. Anh đă chẳng bảo với tôi là xăng đầy, sao bây giờ lại sợ cạn. Tàu mới bay có 4 tiếng, cho tôi biết đồng hồ xăng c̣n chỉ bao tiếng bay nữa. Cơ phi:
- Dạ c̣n 4 tiếng.
- Thế th́ đúng rồi. Tầm bay C.47 là 8 tiếng, nay bay được khoảng 4 tiếng, c̣n lại 4 tiếng là phải rồi. Tôi ôn tồn giải thích cho Cơ phi. Cơ phi c̣n cố chày cối:
- Không tin đồng hồ được.

Câu nói này làm nhiều người tháp tùng chuyến bay hoảng hốt, nhớn nháo, phi cơ tṛng trành gây khó cho Hoa tiêu điều khiển con tàu. Áp huyết máu tôi phụt cao. Tôi chất vấn Cơ phi:

- Anh làm Cơ phi được bao lâu rồi?
- Bảy, Tám năm. Cơ phi trả lời gọn.

Tôi sùng thêm:

- Tám năm bay Vận tải, không tin vào phi cụ thi tin cái ǵ! Chú nhỏ nầy chợt tỉnh, bẽn lẽn quay lên và đóng cửa pḥng lái. Đặng Duy Lạc ngó tôi tủm tỉm cười:
- Xin cụ bớt nực, cho đàn Em sống tí.

Lạc tên đúng với người, lúc nào anh cũng lạc quan, tươi cười cả lúc tôi muốn khóc. Suốt sáng qua bao cảnh đái ra cây, cười ra nước mắt mà ảnh cứ b́nh chân như vại mặt phớt Ăng lê. Có anh này trong những lúc bấn xúc xích, ḿnh cũng mau yên dạ. Tôi vẫn c̣n thắc mắc về cái không đủ xăng để tới bến, tôi ḅ lên pḥng lái thăm hỏi:

- C̣n bao lâu tới Utapao?
- Khoảng hơn tiếng. On trả lời.

Tôi nhẩm tính, dư sức qua cầu. Tôi quay về chỗ ngồi trước mặt Lạc, vỗ đùi anh và bảo:

- Yên trí ! Một giờ nữa đáp.

Yên vị tôi nhắm mắt cố ru hồn cho bớt xao động. Tôi đă thấm mệt với đủ mọi biến cố, căng thẳng tinh thần suốt từ lúc phản đồ mất dạy gây biến. Đang mơ màng chợt thấy Tàu nghiêng cánh, nh́n ra cửa sổ thấy 2 vệt dài trắng xóa song hành lượn dài theo đường bay Tàu ḿnh. Tôi nghĩ ḿnh đă gặp phản lực Thái nghênh tiếp (nói cho oai), nói cho đúng sách vở: nghênh cản. Tôi bước vội lên pḥng lái cho rơ sự t́nh, th́ ra tôi sớn sác trông gà hóa cuốc, thấy nước tưởng trời thấy “out board” tưởng “Jet”. Dẫu sao th́ Tàu đă nhập không phận Thái Lan, đất liền đă ló dạng.

Vào ṿng không lưu Utapao, Quí-On xin đáp khẩn cấp và báo cho Đài Kiểm soát, phi cơ khi cất cánh có đụng chiếc xe hơi Pick Up, yêu cầu họ quan sát chân đáp. Đài Kiểm soát:

- Looking good.

On-Quí cho Tàu vào ṿng cuối, đáp nhẹ. Bánh vừa chạm phi đạo, phi cơ chợt xẹt qua phía trái, rời phi đạo, nhảy chồm chồm như ngựa chứng bên lề đường bay, nghiênh cánh quẹt đất bụi mù.

Tử thần vung lưỡi hái. Mỹ quốc An phi tung toàn lực tiếp chiến. Đại tá chỉ huy căn cứ dẫn đầu đoàn quân cứu ứng, cứu hỏa, cứu thương đủ bộ, điều quân tuyệt hảo. Qủy sứ nhà trời nhượng bộ. Tàu nằm yên xệ cánh. Quân Mỹ bao quanh dàn chào. Tàn quân ta sửa sang mũ áo.

- Xin mời “Người” xuống trước. Một tiếng xướng (không biết của ai) trăm miệng hùa.
- Gớm, sao tử tế ! Lúc lên chẳng có lời mời, lúc xuống đương đầu lắp “Verb” th́ mời “Người” xuống cho.

Tôi nghĩ nên để Trưởng phi cơ xuống trước cho đúng phép lịch sự. Tôi yêu cấu On xuống trước, On lắc đầu đùn miết cho tôi.

Tôi đùn cho Lạc. Lạc đẩy tôi đi. Đùn tới đùn lui chẳng ra cái thể thống ǵ. Tôi liền bước tới mở cửa cho xong, dùng già dùng dằng xăng phát nổ thiêu sống cả đám lại khổ nữa.

Cửa Tàu vừa mở, Đại tá Mỹ đă trực sẵn đưa tay chào. Tôi trả lễ. Óng ta lịch sự đón tay tôi đỡ xuống, miệng không ngớt xă giao:

- Congratulation, Good landing!

Tôi có đáp chó đâu mà congratulation tôi. Tôi c̣n bận lo đến cái “không biết ra sao ngày sau” nên chẳng buồn đính chánh:

- Thank you. Any Vietnamese before me ? Anh văn nhát gừng, tôi hỏi ông bạn đồng đẳng lịch duyệt.
- Plenty. Don't worry!

Người bạn ân t́nh cứu mạng vội trấn an tôi, đồng thời yêu cầu tôi cho mọi người lên 2 GMC trực sẵn. Tôi yêu cầu đoàn quân bại tẩu, trật tự hàng lối lên xe, cố chứng minh với anh bạn Đồng minh tốt bụng này:

Tuy ta bại nhưng quân ta vẫn c̣n kỷ cương. Mọi người tuần tự lên xe, trẻ nít trước, phụ nữ sau, bại quân sau chót.

Ai nấy hối hả th́ bỗng Th/tá Nguyễn Kim Hằng bước ra khỏi hàng, qùy xụp xuống đất, 2 tay
trước ngực, mặt ngước nh́n trời, mắt nhắm kín, miệng khấn lâm râm. Mỹ ngơ ngác, quân ta ngơ ngẩn nh́n. Chờ cho Hằng xong nghi thức tạ trời, Tôi lại gần hỏi nhỏ:

- Cậu khấn ǵ vậy. Trông như cậu đang xin tha mạng.

Hằng nghiêm trang:

- Em qùy cảm tạ Trời Phật đă cứu sống chúng ḿnh v́ khi thấy phi cơ nhào ra lề, cà cánh xuống đất Em lo phát nổ. Sợ teo!

Có niềm tin vẫn là liều thuốc an thần. Tất cả đă yên vị trên 2 GMC, Đại tá Mỹ cho lệnh lăn
bánh đưa chúng tôi về nơi tập trung tàn quân không lực (phải, hết xíu quách rồi !)

Xe vừa rời xa con tàu cứu tinh yêu dấu tôi bỗng thấy, thấy mấy Airmen cờ hoa nhẩy vội từ chiếc xe Pick Up vừa xịch đến tay cầm lon sơn xịt lấy xịt để, bôi xóa cờ hiệu và huy hiệu VNCH trên chiếc C.47 kiêu hùng của chúng tôi.

Mỹ làm thế để chủ quyền Thái không bị xâm phạm, không t́m cớ tịch thu phi cơ v́ không có bằng chứng phi cơ lạ xâm nhập Thái Lan. Thấy người mà ngẫm đến ta. Ḿnh chạy, không kế hoạch, Mỹ hứng, đầy đủ lớp lang. Người khinh ta là phải!
Tới nơi phải xuống. Tôi uể oải leo xuống tiến về nơi chỉ định, miệng lư nhí chẳng biết có ai nghe:

- Kể từ phút này, Tôi cũng như tất cả, phận ai nấy lo chúc mọi người may mắn!

Bây giờ đă quá chiều, Tôi cảm thấy ră rời, t́m vội một nơi ngả lưng dưới mái “Tent” căng tạm của Không lực Mỹ. Chưa được bao lâu, mọi người chộn rộn, lăng xăng xếp hàng chuẩn bị dùng bữa cơm chiều. Lúc đó tôi mới chợt nhớ suốt đêm hôm trước đến chiều hôm nay tôi chưa có ǵ lót dạ.

Tôi không thấy đói. Biến cố dồn dập, liên tục xảy ra không c̣n th́ giờ lo cho cái bao tử. Những nhức nhối, uất nghẹn, ứa gan cho cái tan hàng ră ngũ “Vô duyên” đă đầy ắp ḷng tôi làm tôi quên cả đói. Tôi không muốn ăn. Anh em khuyên tôi cố ăn chút ít cho lại sức. Nuốt “miếng cơm Từ Mẫu”, tôi nghẹn ngào cho thân phận, 25 năm dâng trọn tuổi thanh xuân cho đất nước những tưởng t́m được yên vui cho dân tộc nhưng mộng ước không thành, giờ đây khởi đầu lạc loài nơi đất khách, thật ê chề cho kiếp ḿnh!

Đă 23 năm tôi ôm câu chuyện cất kín ḷng ḿnh. Tôi sợ nói ra, buồn nhiều cho bạn, buồn thêm cho tôi, cho anh, cho cả ½ phần dân tộc. Tôi không muốn ai, lúc đó, cả bạn lẫn thù, khinh ḿnh thêm nữa.

- Bí ẩn lịch sử rồi đây sẽ được phơi bầy.
- Chúng ta chỉ là con cờ thí !
- Chỉ buồn, những người cầm vận mệnh đất nước.

Ngày đó cũng như ngày nay, không đủ khôn cũng không đủ khéo để tránh cho dân khỏi khổ, nước khỏi nghèo, tiền nhân khỏi hổ thẹn.

Đào Huy Ngọc
Tháng 4-98

Nguồn: dt_daohuyngoc.htm