Truyện kể về Anh Tôi, Tướng Hiếu

Chương I
Thời Niên Thiếu

Anh tôi sinh ngày 23 tháng 6 năm 1929 tại Thiên Tân, Trung Hoa. Các anh em gồm có: Trung (trai, sinh năm 1927, chết năm 1948), Tiết (trai, sinh năm 1932, chết năm 1957), Nghĩa (gái, sinh năm 1933, chết năm 1933), Đễ (gái, sinh năm 1935, chết năm 1936), Trí (trai, sinh năm 1938), Tín (trai, sinh năm 1942), và Hòa (gái, sinh năm 1944).


Trí, Hòa, Tín (Sàigòn 1972)

Thân phụ là Nguyễn Văn Hướng, quê quán Bắc Ninh. Sau khi đậu bằng "Diplôme d'Etudes complémentaires franco-annamites" (Thành Chung) năm 1921, ông cụ bôn ba sang Tàu lập nghiệp tại Thiên Tân và năm 1925 lập gia đình với Nguyễn Thị Nghiêm, quê quán Hà Đông.


Nghiêm (năm 15 tuổi)


Nghiêm (Thiên Tân 1932)

Năm 1933, cụ Hướng dự tính trở về Việt Nam, nhưng khi trên đường quá giang tới Thượng Hải thì tìm được việc làm tại sở cảnh sát Pháp trong Tô Giới Pháp, và ở lại đây đến năm 1949 khi quân đội Hồng Mao tiến chiếm Thượng Hải mới về nước.


Năm 1939, ông cụ đưa ba con trai Trung Hiếu và Tiết về thăm quê nhà.


Thăm họ hàng ở Phố Phúc Kiến, Hà Nội 1939

Năm 1945, trong thời kỳ Nhật chiếm Thượng Hải, bà cụ qua đời vì nhiễm bệnh lao. Trung, anh cả, đang khi học Université l’Aurore de Shanghai ban Khoa Học, chết đầu năm 1948 cũng vì bệnh lao.

Ông cụ có kể một ít chi tiết về đời mình trong bài Cuộc Đời Tôi

Anh tôi theo học trường Collège Français de Shanghai và đậu bằng Baccalauréat en mathématiques năm 1948.


Collège Français de Shanghai (năm 1930)

Tiếp sau đó anh tôi nhập học Université l’Aurore de Shanghai ban Khoa Học, được một năm thì theo gia đình về nước.


Aurore University de Shanghai

Nhờ trưởng thành trong một môi trường quốc tế với các khu vực tô giới Pháp, Anh, Nga và Quốc Tế, xen kẽ nhau, anh tôi đã thủ đắc được tài ăn nói nhiều ngoại ngữ như Pháp, Anh, Đức và ba thứ tiếng Tàu: Thượng Hải, Quảng Đông và Quan Thoại. Kể ra thì cũng một phần vì có máu sinh ngữ trong người vì thân sinh cũng giỏi tiếng Pháp, Anh, Nga, Nhật, Tây Ban Nha ngoài ba thứ tiếng Tàu nêu trên. Ông cụ khoe: “Đầu tháng sau, tôi mới chính thức vào làm việc ở Sở Cảnh Sát Tô Giới Pháp. Lương tháng 300 đồng, phụ cấp tiếng Nhật 20 đồng, tiếng Anh 20 đồng, tiếng Tàu, 20 đồng, viết chữ Tàu 60 đồng; làm việc ngoài giờ 60 đồng; dạy tiếng Pháp cho cảnh sát viên Việt Nam 60 đồng; tổng cộng 540 đồng.”

Ngày 5 tháng 4 năm 1945, gia đình đáp tầu chiến Commandant de Pimodan của Hải Quân Pháp về đến Sài Gòn ngày 9 tháng 5 năm 1949.

Khi ở Sài Gòn tôi nhớ có lần anh tôi đưa mấy em đi chơi vườn bách thảo.

Tiếp sau vài ba tháng, gia đình chuyển lên Hà Nội, nơi ông cụ được cử giữ chức Phó Giám Đốc Công An Bắc Phần, phụ tá cho ông Giám Đốc Nguyễn Đình Tại, dưới thời Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí.


Hiếu, Tiết, Trí, Tín, Hòa (năm 1949)


Nghĩa là anh họ, con ông Thường

Chừng một năm sau thì ông cụ thay ông Tại giữ chức Giám Đốc Công An Bắc Phần.


Hà Nội năm 1953

Vào thời kỳ này, anh tôi đứng trước ngã ba của cuộc đời mình: gia nhập hoặc đại học luật khoa hay khoa học tại Hà Nội, hoặc là tham gia vào phong trào một số thanh thiếu nữ du học qua Mỹ hay Pháp, hay là gia nhập trường Võ Bị Quốc Gia mới thành lập. Anh tôi đã chọn lựa còn đường thứ ba này.

Trong thời gian đợi đăng lính, anh tôi dạy kèm Anh văn cho một số thanh niên thiếu nữ chuẩn bị du học sang Mỹ.


Hà Nội 1950

Nguyễn Văn Tín
Ngày 2 tháng 1 năm 2015


trở về mục lục

general hieu