SỰ THỰC VỀ MỘT HỔ TƯỚNG

 

Trích trong tác phẩm "Nước Mắt Trước Cơn Mưa." Chương 15: Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà

 

ĐẠI TÁ LÊ KHẮC LƯ

 

“Tôi là người độc nhất c̣n lại để kể chuyện cho quư vị.”

 

 

Vào năm 1974 có lần tôi đến tŕnh diện tướng Phạm Văn Phú tại tư thất của ông ở Pleiku. Tướng Phú gọi tôi đến thảo luận một số kế hoạch. Điều đầu tiên ông nói là ông muốn di chuyển Bộ Tư Lệnh Quân Khu II tại Pleiku xuống Nha Trang. Ông hỏi tôi nghĩ thế nào? Tôi trả lời: “Tôi nghĩ đây không phải là một ư kiến tốt. Tôi ở vùng này khá lâu, đủ để hiểu tại sao chúng ta đóng Bộ Tư Lệnh tại đây. Chính Tổng thống Ngô Đ́nh Diệm là người đă cho khai phá và phát triển vùng này. Ông Diệm có nhiều lư do chính đáng. Ông có ư đưa ảnh hưởng quân đội lên trấn ngự vùng cao nguyên. Đây là một khu then chốt, một khu vực chiến thuật trọng yếu, một khu vực canh nông với đất đai màu mỡ. Muốn đất nước giàu mạnh, phải sử dụng vùng này. Nay nếu Thiếu tướng rời khỏi đây, dân chúng sẽ di chuyển theo. Vùng này bỏ trống, Cộng sản sẽ đến. Khi kiểm soát được vùng này, chúng sử dụng làm căn cứ th́ chúng ta sẽ mất tất cả miền Nam. Vậy nếu Thiếu tướng ở lại, dân chúng sẽ ở lại. Cộng sản có đến chăng nữa cũng phải khốc liệt lắm mới lấy được vùng này khỏi tay chúng ta. Thiếu tướng không thể cho không bọn Cộng sản vùng đất này!”

 

Quân Khu 2 là một vùng rất rộng, trong đó chúng tôi có mười bốn tỉnh. Nhưng chúng tôi chỉ có hai Sư đoàn, Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23. Vùng b́nh nguyên thuộc Quân Khu 2 cũng là một vùng rất trọng yếu về kinh tế và kỹ thuật.

Nhưng tướng Phú muốn di chuyển. Ông bảo: “Đóng ở đây là đóng Bộ Tư Lệnh quân đoàn ở tiền phương, mà binh đội lại đặt ở hậu cứ.” Tôi nói “Điều ấy rất đúng! Nhưng bây giờ nếu Thiếu tướng rục rịch ǵ ở Bộ Tư Lệnh là dân chúng cũng sẽ hoảng sợ mà di chuyển theo Thiếu tướng ngay.”

 

Sau hiệp định Ba Lê 1973, dân chúng luôn xem chừng quân đội. Hễ quân di chuyển đến đâu, dân di chuyển đến đấy. Họ thấy hiệp định Ba Lê không phải là một hiệp định ngưng chiến. Có điều ǵ dối trá ẩn giấu đàng sau. Dân Việt Nam biết kế hoạch của Kissinger. Họ biết tại sao Kissinger đă kư hiệp định này, dù không có thuận ư của chính quyền miền Nam. Dân chúng luôn tụ tập ở những địa điểm có đặt trụ sở các Bộ Tư Lệnh cao cấp. Khi các Bộ Tư Lệnh cao cấp di chuyển, mặc dầu vẫn để lại các trụ sở cấp dưới, nhưng đại đa số dân chúng sẽ vẫn cứ di chuyển theo bộ tư lệnh cao cấp, bỏ địa điểm cũ thành những nơi gần như hoang vắng.

 

Cao nguyên có một khối lượng dân đông đảo. Nếu họ di chuyển, Cộng sản sẽ có nhiều cơ may tiến vào. Dân không muốn bị bỏ lại với Cộng sản. Họ xem chừng và để ư tướng Phú rất kỹ. Nhưng tướng Phú thường hay ở Nha Trang. Nhiều người bảo tôi rằng ông ấy sợ. Tôi nghĩ có lẽ đúng. Ông từng bị bắt làm tù binh trong trận Điện Biên Phủ 1954, cho nên cứ nghĩ đến Việt Cộng là ông ấy đă đủ sợ. Tôi không có ḷng tin nơi tướng Phú mỗi khi chúng tôi đụng trận.

 

Lúc ấy, ông quyết định không rời Bộ Tư Lệnh Quân khu nữa, nhưng cá nhân ông đă chuyển một số lớn của cải và đưa cả gia đ́nh đi Nha Trang, hầu hết nhân viên cũng đi theo với ông. Tôi là người phải điều động mọi việc ở Pleiku. Đây là sự thực. Tôi không hề có ư khoe khoang.

 

Tướng Phú có mâu thuẫn cá nhân với hai ông tướng khác: Tướng Trần Văn Cẩm, trước là Tư lệnh Sư đoàn 23 dưới quyền tướng Nguyễn Văn Toàn. Khi tướng Toàn đổi đi, ông Cẩm trở thành phụ tá hành quân cho tướng Phú. Một người nữa là tướng Phạm Duy Tất, trước là Sư đoàn Trưởng Sư đoàn 21. Sau trở thành phụ tá B́nh Định ở Nha Trang. (*)

 

Tướng Phú không thích cả hai ông này. Không có sĩ quan chấp hành, tướng Phú bèn tự đặt ra một số nhân viên riêng. Trưởng pḥng Tổng quản trị của tướng Phú, Trung tá Trần Tích là người phụ trách bổ nhiệm sĩ quan vào các chức vụ thân cận của tướng Phú. Trung tá Tích làm việc rất chặt chẽ với vợ tướng Phú. C̣n tôi chỉ biết lo điều động những chuyện hành quân, t́nh báo và tiếp vận của vùng cao nguyên mà thôi.

 

Tôi nghe quá nhiều dư luận về những chuyện bổ nhiệm này, trong ấy có điều đúng, cũng có điều thổi phồng. Tôi đă nghe nhiều chuyện về việc người ta đưa tiền cho vợ tướng Phú để mua chức vụ. Những chuyện này rất nản, làm người ta xuống tinh thần, nhưng làm ǵ được bây giờ? Báo cáo cho Tổng thống Thiệu chăng, nhưng như thế cũng chẳng kết quả ǵ, v́ lẽ chính ông Thiệu cũng đă bị mua chuộc. Tôi bảo với các sĩ quan của tôi rằng tôi bịt miệng, che tai. Tôi chỉ cố làm cho tṛn bổn phận một cách tốt đẹp. Tôi không muốn quan tâm đến các chuyện khác.

 

Về vụ tấn công Ban Mê Thuột: Chúng tôi biết chuyện ấy sẽ xảy ra. Tuy không biết đích xác lúc nào, và lực lượng Cộng sản có bao nhiêu, nhưng chúng tôi biết chuyện ấy sẽ đến. Đại tá Trịnh Tiếu, sĩ quan t́nh báo của tôi – hiện đang ở trong trại cải tạo tại Việt Nam – lúc ấy đă thảo luận với tôi về sự kiện một sư đoàn Bắc Việt có mặt tại vùng cao nguyên đang di chuyển. Chúng sẽ tấn công một địa điểm nào đó. Nhưng khi báo cáo tướng Phú, ông cho rằng chúng sẽ tấn công Kontum hay Pleiku. Ông đă tập trung quân lực để pḥng vệ những vùng này. Ông Tất, Chỉ huy Biệt Động quân Vùng II, bạn đồng khoá với tôi, hiện cũng đang ở trại cải tạo tại Việt Nam, là người trách nhiệm pḥng thủ Kontum và Pleiku. Kontum rất dễ tấn công. C̣n Pleiku là căn cứ Bộ Tư lệnh Quân đoàn. Tấn công những địa điểm này sẽ là một chiến dịch tuyên truyền chính trị thuận lợi cho địch quân. Tuy nhiên sĩ quan t́nh báo của tôi và cá nhân tôi hoài nghi giả thuyết này. Nếu địch muốn tuyên truyền, họ sẽ tấn công vào các toà hành chánh tỉnh. Nếu đánh Pleiku, họ không thể tấn công toà tỉnh. Và nếu họ tấn công chúng tôi, là sẽ có ngay các lực lượng tăng cường đến từ Sàig̣n. V́ thế chúng tôi đặt Ban Mê Thuột lên đầu bảng liệt kê các mục tiêu mà Cộng quân có thể tấn công tại vùng II.

Nhưng khi tướng Phú quan sát Ban Mê Thuột, ông vẫn cho rằng Ban Mê Thuột có thể giữ được nếu bị tấn công. Ông tin địch quân không thể vào tỉnh. Phần tôi, không thấy có đặc công ở đấy. C̣n chiến xa Bắc Việt, đối với chúng tôi không quá quan trọng, v́ lẽ chúng tôi có không quân, Bắc Việt th́ không.

 

Cuối cùng khi Cộng sản tấn công Ban Mê Thuột, ai nấy hoảng hốt. Khi chúng tấn công vào, tướng Phú đang ở Nha Trang. V́ thế tôi quyết định dàn quân lên Ban Mê Thuột. Tại đấy chúng tôi đă có Trung đoàn 53, và chúng tôi cho Biệt động quân tăng cường.

Trong một cuộc không kích của phi cơ chúng tôi, chẳng may đụng lầm Bộ chỉ huy tiền phương Sư đoàn 23, phá tan tất cả hệ thống truyền tin. Khi phải tái phối trí trận truyến, chúng tôi chiếm được một nửa thành phố. V́ Bắc quân quá mạnh trong thành phố, chúng tôi tiến chiếm thành phố một cách chậm chạp. Chúng tôi sợ bị mai phục. Rồi chính lúc ấy Sư đoàn Trưởng Sư đoàn 23 đă cho lính giữ an ninh để trực thăng đáp xuống bốc vợ ông và gia đ́nh ông. Thật sỉ nhục. Trách nhiệm ông là chỉ huy chiến dịch tái chiếm Ban Mê Thuột, nhưng chỉ v́ lo lắng cho sự an nguy của vợ mà ông đă đặt băi đáp, ra lệnh cho binh sĩ tấn công phải quay lại bảo vệ vùng này trước! Quân Bấc Việt đă quan sát được. Khi ông ta làm thế th́ Bắc quân khép chặt thành phố. Ông đă cho địch quá nhiều thời gian. Ông cho chúng một cơ hội tốt, rồi sau đó ông đă tiến quân rất chậm!

Đó là một lỗi lầm đáng trừng phạt. Ông đă bất tuân thượng lệnh. Nhưng ai sẽ là người quyết định về ông ta? Tướng Phú, hay Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham mưu Trưởng liên quân? Sau này tôi đối diện với ông ta. Ông bảo trực thăng của ông bị bắn tỉa, ông bị thương. Ông giải thích tất cả binh sĩ đă ra khỏi trực thăng đi lo cho gia đ́nh riêng của họ. Ông không thể kiểm soát họ được. Chúng tôi là bạn lâu năm, tôi bèn nói: “Tướng Tường, ông là Tư lệnh Sư đoàn, tại sao ông không bắn chúng nó?”. Ông ta không trả lời.

Phần Tướng Phú th́ bay trở lại Pleiku quan sát t́nh h́nh. Lúc ông ở trong trung tâm hành quân với tôi th́ nhận được một cú điện thoại từ Sàig̣n do Tổng thống Thiệu gọi. Ông Thiệu bảo muốn gặp tướng Phú ngày hôm sau, tức là 14 tháng 3/1975 tại Cam Ranh. Tôi bèn chuẩn bị các đồ biểu thuyết tŕnh, các bản báo cáo t́nh h́nh cho buổi họp. Chúng tôi nghĩ Tổng thống Thiệu muốn biết diễn tiến các cuộc hành quân ra sao. Sáng hôm sau, ông Phú bay xuống Cam Ranh gặp ông Thiệu.

 

Sau khi gặp tổng thống, đêm ấy ông Phú trở về triệu tập một buổi họp tại Pleiku. Hiện diện trong buổi họp gồm có: Tướng Phú, tướng Cẩm, tướng Phạm Ngọc Sang Tư lệnh Sư đoàn 6 Không quân, ông Tất và tôi. Vừa bước vào pḥng họp, điều đầu tiên ông Phú nói là ông đă được ông Thiệu chấp thuận thăng chức cho ông Tất. Ông gắn sao cho ông Tất. Chúng tôi vỗ tay. Xong, ông loan báo: “Chúng ta sẽ triệt thoái khỏi Pleiku và Kontum!”

 

Nghe ông nói như vậy, tôi mở mắt thật lớn. Tôi nghĩ có lẽ ḿnh nghe không rơ. Nhưng ông giải thích: Chúng ta rút lui chiến thuật để tái phối trí chiếm lại Ban Mê Thuột.

Ông Cẩm, ông Sang, ông Tất và tôi đều ngồi sững. Chúng tôi véo nhau.

Tôi tự nghĩ: “Cần phải hỏi xem chúng tôi sẽ triệt thoái cách nào.”

Tôi lên tiếng hỏi. Ông Phú đáp: “Quư ông sẽ sử dụng đường 7B.”

Phản ứng tức khắc của tôi là bảo: “Thưa Thiếu tướng, không thể được!”

Ông Phú bảo: “Tổng thống đă quyết định. Chúng ta không có sự lựa chọn, bởi v́ chúng ta cần đạt yếu tố bất ngờ với địch quân.”

Tôi bảo: “Thưa Thiếu tướng, tôi sống khá lâu ở đây. Tôi biết rất rơ vùng này. Đường 7B đă bỏ phế từ lâu. Lực lượng Đặc biệt Mỹ, Lực lượng Đặc biệt Việt Nam, và cả địch quân đều đă hành quân trong khu vực ấy. Họ đă gài ḿn khắp nơi. Nếu phải triệt thoái với các quân cụ quân dụng nặng nề, trước tiên phải khai quang ḿn trên đường, nay ai c̣n có thể biết ḿn đặt chỗ nào? Rồi lại phải sửa đường, làm ǵ có thời gian sửa chữa? Ngoài ra khi chúng ta quyết định triệt thoái là mọi người sẽ biết, chẳng c̣n ǵ bất ngờ nữa! Xin đề nghị Thiếu tướng nếu phải triệt thoái, hăy sử dụng quốc lộ số 19 mà đi thẳng. Sẽ phải chấp nhận một số tổn thất, nhưng như thế chúng ta mới có thể qua được.”

Tướng Phú bảo: “Không. Tất cả quyết định rồi! Quư ông không lựa chọn ǵ nữa. Sáng mai tôi bay đi Nha Trang. Quư ông sẽ có ba ngày để lo triệt thoái!”

Tôi bảo: “Thưa Thiếu tướng, làm sao được? Chúng ta có bao nhiêu binh sĩ, bao nhiêu là đồ tiếp liệu và quân cụ. Phải ít nhất ba tuần lễ chúng tôi mới hoạch định nổi.” 

Ông ấy bảo: “Tất cả những điều ấy cũng đă quyết định xong.”

Tướng Cẩm và tôi bèn hỏi thế c̣n Địa phương quân, Nghĩa quân, các nhân viên hành chánh xă, tỉnh và dân chúng th́ sao? Tướng Phú nói: “Quư ông đừng phải lo ǵ cho họ cả. Quên đi!”

 

Tôi hỏi ông ấy đă nói chuyện với người Mỹ, các nhân viên Trung ương T́nh báo và văn pḥng Tùy viên Quân sự của Hoa Kỳ trong vùng chưa? Và tôi không bao giờ quên điều này: Ông nh́n thẳng vào tôi mà bảo “Hăy quên bọn Mỹ đi. Đừng nói với ǵ với người Mỹ cả.” Đó là đích xác những lời ông ấy nói. Tôi rất xấu hổ mà kể cho quư vị nghe sự thực đă xảy ra ở Pleiku như vậy. Tôi không tin nổi chuyện ấy. Tướng Phú đă dự định bỏ rơi cả những người Mỹ, không báo động cho họ biết về cuộc rút quân này.

Lệnh thực ra là từ Tổng thống Thiệu. Tất cả những ǵ tướng Phú nói với tôi, ông bảo đều do ông Thiệu nói. Trong năm người tham dự buổi họp, giờ đây chỉ c̣n lại một ḿnh tôi để kể câu chuyện này tại Mỹ. Ông Phú tự sát. Ông Sang, ông Cẩm, ông Tất giờ đây đều bị giam tại các trại cải tạo ở Việt Nam. C̣n lại tôi là người độc nhất để kể câu chuyện này cho quư vị.

Ông Phú nói ông phải làm như vậy v́ ông tuân hành lệnh. “Quư vị khỏi lo lắng ǵ chuyện này,” ông nói. Ông có vẻ rất bối rối khi nói và hiện rơ vẻ bất đồng ư kiến với lệnh trên.

Tôi được chỉ định làm sĩ quan chỉ huy triệt thoái. Ông Tất phụ trách các lực lượng chiến thuật, toàn bộ hệ thống truyền tin và tiếp vận. Tôi tự bảo “Trời! khổ cho tôi.”

Tám giờ sáng hôm sau, tướng Phú ra đi. Ông dùng máy bay, bay đi. C̣n lại ḿnh tôi lo liệu. Một lát sau, từ Sàig̣n tướng Đồng Văn Khuyên, Tham mưu Trưởng liên quân điện thoại, hỏi: “Tướng Phú đâu?” Tôi bật cười v́ sự thể quá lố bịch. Tôi tự hỏi “Nói ǵ bây giờ? Nên nói thực hay nên chống chế cho ông Phú đây?”

Tôi bèn bảo: “Tôi không được rơ. Hiện tôi không có liên lạc ǵ với Tướng Phú cả.” Trung tướng Khuyên tiếp tục gọi nhiều lần nữa. Cuối cùng tôi đành bảo: “Vâng, xin Trung tướng cứ gọi Nha Trang để nói chuyện, ông ấy hiện ở đấy.” Tướng Khuyên hỏi: “Tại sao ông ấy lại ở Nha Trang.” Tôi bảo: “Thưa, tôi không được rơ. Trung tướng cứ hỏi thẳng ông ấy. Tôi hiện đang trách nhiệm điều động công tác ở đây, c̣n Tướng Phú đang ở Bộ Tư lệnh mới, đặt tại Nha Trang.”

Nhiều Tiểu đoàn Trưởng các binh chủng, nào Thiết giáp, Pháo binh, Quân vận đều đến gặp tôi, họ kêu ầm lên: “Tại sao lại rút? Chúng tôi đánh được, tại sao lại rút? Có việc ǵ xảy ra vậy?” Tôi chỉ c̣n có thể trả lời: “Tôi đồng ư với các bạn. Nhưng đây là lệnh Tổng thống và Tổng Tham mưu. Là quân nhân chuyên nghiệp, chúng ta làm ǵ được bây giờ? Bất tuân lệnh hay sao? Tất nhiên là không. Tôi biết là sai, nhưng đây là lệnh. Chúng ta muốn khởi loạn hay sao?”

Lúc ấy tôi tin thượng cấp đă có một kế hoạch mật mà chúng tôi không được rơ. Họ không thể ngu xuẩn đến như thế. Có lẽ đă có một sách lược mà v́ không ở cấp chỉ huy tối cao, nên chúng tôi không được biết. Tướng Cẩm và tôi bàn bạc về cuộc rút quân điên rồ này. Chúng tôi ngồi cười. Ông Cẩm bảo: “Tôi cá với ông: đă có thỏa thuận rồi, ḿnh khỏi đánh giặc nữa. Tôi cá là chiến tranh đă xong!” Tôi bảo: “Tôi ngờ lắm.” Nhưng ông ta nói: “Tôi suy đoán như vậy v́ ở đây dẫu xảy ra bất cứ một cuộc tấn công nào, chúng ta cũng có thể đương đầu ít nhất ba tháng. Cho nên tôi cá với ông là đă có thỏa thuận, lần này ḿnh có hoà b́nh thực sự. Tôi không rơ, nhưng tôi cũng cảm thấy như vậy.”

Tướng Cẩm cũng dùng máy bay, bay đi. Chỉ c̣n ông Tất và tôi trong Bộ Tư lệnh. Tôi tự nhủ người Mỹ đă là đồng minh chúng tôi trong bao năm trời. Diễn tiến này rất trọng hệ, mà họ lại không được biết ǵ. Tại sao chúng tôi không cho họ hay? Đó là lư do tại sao tôi đă gọi cho họ, bảo họ chúng tôi sắp triệt thoái. Họ hoàn toàn không hay biết ǵ.

Tôi báo cho các nhân viên Trung ương Tinh báo và Tổng Lănh sự Hoa Kỳ trong vùng là chúng tôi sắp rút quân. Họ không tin nổi khi tôi nói với họ như thế. Họ liên lạc Sàig̣n, kiểm chứng, rồi t́m ra đó chính là sự thật. Nhờ vậy, họ đi thoát bằng máy bay, nên tôi đă được coi là có công trạng với Trung ương T́nh báo Hoa Kỳ tại Sàig̣n, tên tôi được lên đầu danh sách những người sẽ được giúp đỡ nếu Sàig̣n sụp đổ.

Cuộc triệt thoái khởi đầu tiến triển tốt. Vào giây phút cuối, trực thăng của tôi bị hỏng máy, nên tôi đă đi cùng với đoàn xe ra khỏi Pleiku. Triệt thoái luôn luôn là một chiến dịch khó khăn, đ̣i hỏi nhiều tính toán cẩn thận, tỉ mỉ. Tôi chỉ có ba ngày để rút 100,000 người, và tôi không thể bỏ ai được. Dân chúng sinh sống chung quanh đáng được chúng tôi phải lo lắng săn sóc cho họ. Và dù tôi không bảo vệ nổi, họ vẫn đi theo. Rồi chỉ trong một thời gian ngắn, mọi sự bắt đầu ra ngoài khả năng kiểm soát của tôi. Các Tiểu đoàn trưởng thuộc quyền tôi không thể nào kiểm soát nổi tất cả mọi người được nữa. Đoàn người tan tành trên đường đến Tuy Hoà. Với thời hạn ba ngày, chúng tôi không thể đủ th́ giờ làm được ǵ. Với thời hạn ngắn ngủi như thế, người ta chỉ c̣n có thể quyết định: Ai đi trước, ai đi sau, ai đi kế tiếp, thế thôi.

Bây giờ, hàng đêm tôi tưởng như tôi vẫn c̣n nh́n thấy cả đoàn xe ấy trước mắt. Nào chiến xa, thiết vận xa, xe vận tải nối đuôi nhau, biết bao binh sĩ với gia đ́nh thân quyến vây quanh. Những cụ già ngồi lắc lẻo trên mui xe, những bà mẹ, những trẻ thơ ngủ trong ḷng mẹ, nằm duỗi trên tay mẹ. Đôi lúc vài người xấu số chẳng may ngă xuống trong lúc đoàn xe tiếp tục chạy. Họ kêu la thảm thiết, thân h́nh bị nghiền nát dưới bánh xe. Tôi đă nghe những tiếng kêu la ấy. Tôi đă thấy một chiếc xe vận tải sức chở chỉ có nửa tấn đă nhồi nhét đầy người nên bị lật, những con người bị xe đè xuống nát xương. Tôi đă nghe tiếng xương gẫy. Tôi bất lực chẳng giúp ǵ được họ. Tôi đă thấy những con người bỏ xác bên đường. Thực là một cơn ác mộng kinh hoàng.

Đến phía tây thị xă Cheo Reo, đoàn xe bị oanh tạc nhầm bởi chính không quân chúng tôi, vô số người thiệt mạng. Tôi vừa vào được căn cứ Cheo Reo th́ quân Bắc Việt đă kéo đến vây quanh. Chúng rót trái phá vào. Chỉ c̣n mỗi một máy truyền tin để gọi Nha Trang trong lúc tôi nằm dưới cơn mưa pháo.

Đơn vị truyền tin của tôi cố liên lạc với tướng Phú ở Nha Trang, th́ ông Phú lại đang đi loanh quanh đâu đó. Tôi sử dụng Anh ngữ nói trên máy truyền tin với sĩ quan của tôi, v́ lúc ấy địch quân chỉ c̣n cách căn cứ chúng tôi có khoảng một cây số. Tôi bảo anh ta: “Tŕnh với Thiếu tướng là t́nh h́nh ở đây nguy kịch lắm. Hiểu tôi muốn nói ǵ khi tôi bảo t́nh h́nh nguy kịch chứ? Thế thôi! Không th́ giờ nói nhiều. Tôi sẽ cố sức. Địch xiết chặt rồi.” Tướng Phú hiểu. Và hai mươi phút sau ông gọi tôi trên máy truyền tin, báo động cho tôi biết một lực lượng địch tại Phú Bổn đang khép chặt ṿng vây. Ông Tất cùng với binh sĩ đang ở cách tôi ba cây số. Không quân được lệnh mang tôi ra bằng trực thăng. Thiết giáp được lệnh mở đường bất kể thiệt hại, và ông Tất sẽ đưa quân hỗ trợ.

Ông Phú gửi hai trực thăng đến, để đưa chúng tôi ra Nha Trang. Hỏa lực địch bắn lên dữ dội khi trực thăng hạ cánh. Chiếc trực thăng chở tôi tính ra tổng cộng chở đúng hai mươi bảy người, trong khi chỉ được chế tạo để chở mỗi lần bảy người. Chiếc kia gồm mười chín người. Rồi cũng cất cánh lên được, bay thoát về Tuy Hoà. Chúng tôi rất may mắn đă thoát. Trong lúc ấy tướng Phú vẫn ở Nha Trang.

Sáng hôm sau, tướng Phú điện thoại ra lệnh gọi tôi vào Nha Trang. Tôi bay vào, tổ chức lại Ban Tham mưu và ở đấy mười hai ngày. Rồi một lần nữa, ông Phú lại bỏ tôi cuốn gói đi. Ông dọn sạch nhà cửa, lấy máy bay đưa toàn gia đ́nh đi, không hề nói với tôi một lời. Một hôm, viên Đại úy đến văn pḥng tôi gơ cửa nói: “Đại tá, chỉ c̣n có Đại tá và tôi ở đây! Chẳng c̣n ai nữa cả!” Tôi bảo “Anh nói ǵ thế?” Lúc ấy vào buổi trưa, tôi vẫn đang cắm cúi làm kế hoạch tái phối trí binh sĩ. Tôi rất mệt, đang muốn ngả lưng. Nghe nói thế tôi bèn ra khỏi văn pḥng, xuống thang gác. Hai nhân viên của tôi đang làm việc, họ báo cáo cho tôi là tướng Phú đă đi mất. Tôi lại nhà tướng Phú, không một ai. Nhà cửa trống rỗng. Tôi hỏi một Thiếu tá Tiểu đoàn Trưởng đang ở đấy là tướng Phú đâu rồi? Anh ta đáp: “Chẳng hiểu chuyện ǵ. Hiện nhà này không có ai cả, nhưng binh sĩ của tôi vẫn phải giữ an ninh căn nhà. Tôi không biết làm ǵ đây nữa.”

Tôi tập hợp sĩ quan, binh sĩ vào năm cái xe jeep. Làm ǵ được bây giờ? Ai nấy đều đă bỏ đi. Người ta bảo có người thấy tướng Phú ngoài phi trường. Chúng tôi lái ra phi trường. Đầu tiên, quân cảnh không chịu cho tôi vào. Sau, họ mở cổng. Khắp chung quanh tôi là lính không quân, tôi gặp cả ông tướng không quân cũng đang dáo dác t́m tướng Phú. Ông ta bảo: “Ông Phú đă đi, rồi ông Lư cũng đi th́ tại sao chúng tôi c̣n ở lại đây. Đi thôi!” Nhưng lúc ấy tôi nào có đi đâu. Tôi chỉ đi t́m người chỉ huy của tôi thôi!

Rồi tôi nhận điện thoại của đại tướng Cao Văn Viên tại phi trường. Ông bảo: “Tướng Phú đâu?” Tôi nói “Tôi không được rơ, chính tôi cũng đang t́m ông ấy!” Ông nói: “Vậy anh cứ ở lại phi trường để kiếm ông ấy cho tôi.” Tôi bảo: “Vâng, tôi sẽ ở đây.”

Chúng tôi đợi chờ trông ngóng măi vẫn chẳng thấy tướng Phú đâu. Sau bảy ngày không ăn không ngủ, tôi qụy xuống v́ suy nhược. Lính và các sĩ quan của tôi bèn đẩy tôi vào một chiếc máy bay trong khi các toán lính khác rút đi. Chiếc máy bay thay v́ đi Phan Rang để thiết lập bộ chỉ huy ở đấy, đă bay thẳng về Sàig̣n. Khi tôi tới Sàig̣n th́ tướng Phú đă ở đấy rồi. Tôi về nhà. Hôm sau đi tiểu ra máu, sức khoẻ sa sút. Tôi đi khám bệnh. Bác sĩ cho thuốc, bắt tôi nghỉ ngơi, nhưng tôi vẫn đi làm.

Một lần nữa tôi cố liên lạc tướng Phú để xem phải làm ǵ. Câu đầu tiên ông ấy bảo tôi là: “Lư ơi, chúng ta bị phản bội rồi.” Tôi hỏi: “Bởi ai vậy?” Ông ta nói: “Bởi Thiệu. Thiệu đă cho chúng ta vào bẫy. Ông ta đă đẩy mọi chuyện cho chúng ta. Ông ta bảo tất cả là lỗi chúng ta. Chính ông ấy ra lệnh cho chúng ta rút quân, bây giờ ông ấy lại tuyên bố mọi sự đều do lỗi chúng ta cả!” Ông Phú muốn chuẩn bị một tờ tŕnh để chứng minh chúng tôi chẳng có tội lỗi ǵ, để giải thích rơ chúng tôi đă điều khiển các chiến dịch ấy như thế nào, tại sao chúng tôi không lấy lại Ban Mê Thuột, tại sao chúng tôi triệt thoái. V́ thế tôi sửa soạn một tờ tŕnh dầy cộm cho tướng Phú.

Tôi đến thăm tướng Phú và tướng Trưởng, Tư lệnh vùng 1, bấy giờ đang ở trong bịnh viện. Tướng Trưởng ôm lấy tôi mà khóc. Ông bảo: “Lư ơi, chúng ta mất hết fôi!” Tướng Trưởng yêu đất nước, yêu đồng đội và yêu Quân đoàn I của ông. Nhưng bây giờ, tất cả không c̣n ǵ nữa.

Khi gặp lại tướng Phú, tôi thấy ông đang giận dữ. Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến ông giận dữ tổng thống. Sau khi trao cho ông tập báo cáo tôi đă soạn xong, ông kư tên, tôi đi gặp tướng Khuyên để đưa tờ tŕnh này cho ông Thiệu và ông Cao Văn Viên. Nhưng sau đó, không bao giờ tôi nghe nói ǵ về tờ tŕnh này nữa.

Tôi hỏi tướng Khuyên: “Chúng ta phải làm ǵ bây giờ. Chúng ta đă mất tất cả chưa?”. Ông nói: “Không. Chúng ta sẽ tập trung lại, vạch lại ranh giới, ông sẽ nắm lại Quân đoàn II.”

Nhưng tôi tự nghĩ ông tướng này không nói hết sự thật. Bây giờ chúng tôi không c̣n có thể làm như vậy được nữa. Nếu ông ấy bảo thế từ lúc tôi c̣n ở Pleiku, th́ c̣n có thể được. Bây giờ tôi chỉ huy được ai. Lính th́ không, địch đầy rẫy, chỗ nào cũng có địch quân.

Tướng Khuyên hỏi: “Nếu ông ở địa vị tôi, ông sẽ làm ǵ?” Câu hỏi đột ngột làm tôi chấn động, v́ tôi nhận ra rằng tôi không c̣n có thể nghĩ được bất cứ giải pháp khả thi nào để giải quyết vấn đề của chúng tôi lúc này nữa.

Khi vê nhà, vợ tôi và tôi nghe tiếng phi cơ liên tục cất cánh mỗi đêm. Chúng tôi biết văn pḥng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ đang di tản người ra khỏi xứ. Tin tức đưa đến chúng tôi mỗi ngày do đó chúng tôi đều biết những ai đă ra đi. Tôi đến gặp một người bạn là Tư lệnh Sư đoàn 2(?) Ông ta và tôi vẫn cố gắng thu thập lại lính tráng để tái tổ chức Sư đoàn 22 và Sư đoàn 23.(?) ()

Nhưng bỗng lúc ấy, chúng tôi lại nhận được những tin tức toàn là tin tổn thất. Tôi đi gặp tướng Hiếu một cấp chỉ huy cũ của tôi và là một tướng lănh hết sức lương thiện trong quân đội.

Tôi hỏi tướng Hiếu t́nh h́nh Quân khu III ra sao. Ông trả lời: “Chúng ta phải tái tổ chức và nỗ lực mà chặn những cuộc tiến công chiến xa của địch quân”. Vài ngày sau, ông bị giết.

Tôi đi ra đi vào từ Vũng Tàu đến Sàig̣n nhiều lần, cuối cùng liên lạc được một số bạn hữu của tôi bên ṭa Đại sứ Mỹ. Họ điện thoại bảo tên tôi đă có trên danh sách những người ra đi. Tôi đến ṭa Đại sứ Mỹ, vào bằng cổng hậu v́ người ta quá đông, họ đă để cho tôi vào. Tôi gặp tướng Charles Timmes, một bạn rất tốt của tôi. Ông bảo ông đă nhận được lệnh Hoa Thịnh Đốn đưa Cao Văn Viên đi, tên tôi được sắp kế tên ông Cao Văn Viên, v́ tôi đă cứu được nhiều người Mỹ trên cao nguyên.

Do đó tôi đưa gia đ́nh trực hệ, gồm vợ và các con đến đợi ở điểm hẹn, rồi được đón vào Tân Sơn Nhứt bằng xe buưt ṭa Đại sứ. Chúng tôi chờ ở phi trường cho đến hôm sau.

Chúng tôi rời Việt Nam bằng chiếc máy bay C-130, bay đến trại tỵ nạn ở Guam. Đó là ngày 25 tháng Tư.

Khi rời đi, tôi biết tất cả đă mất. Trước kia tôi nghĩ có thể Cộng sản và Mỹ có thỏa thuận, nhưng điều ấy sai. Chúng tôi nghe nói người Mỹ đă bán đứng chúng tôi để kiếm những đồng minh khác.

Tôi nghĩ khi Kissinger đi Trung Quốc bắt tay với Mao Trạch Đông, đấy đă là chung cuộc của Việt Nam. Tôi biết sau đó Việt Nam chẳng c̣n hy vọng ǵ. Sau khi người Mỹ đi Bắc Kinh bắt tay với Trung Cộng, họ không cần Việt Nam nữa.

Đối với tôi, đấy là chuyện người ta đă bán đứng chúng tôi. Chúng tôi chẳng có ǵ để nói về chuyện ấy cả. Tôi nghĩ đáng lẽ Tổng thống Thiệu phải thấy được điều này mà chuẩn bị từ trước. Nhưng ông đă không thấy, do đó đối với tôi, Thiệu không phải là một lănh tụ giỏi.

Bây giờ đây quư ông thử nghĩ: Nếu quư ông là người Việt Nam và quư ông yêu quê hương xứ sở ḿnh, tất nhiên sẽ phải hỏi tại sao người Mỹ hành xử như thế? Đây chính là câu hỏi mà tôi đặt ra cho người Mỹ: Tại sao người Mỹ đă đối xử với bạn hữu của ḿnh như thế?

Nhiều người bảo chúng tôi đă bị bán đứng. Tôi đành phải buồn bă mà đồng ư đúng là như vậy.

Tướng Hiếu, Một Thiên Tài Quân Sự?
Các Tướng Lănh QLVNCH
generalhieu