Cuộc mạn đàm với Đại tướng Cao Văn Viên

Từ 1975 đến nay, Tướng Viên giữ một sự im lặng có liêm sĩ và từ chối phê b́nh đến những biến cố tại VN cũng như bí mật trong hậu trường. Người viết đă mất nhiều năm thuyết phục ông nên góp phần đánh tan những dư luận không đúng - từ phía quốc gia, đồng minh cũng như cộng sản - liên hệ đến cuộc chiến đă qua. Cuối cùng, trước Giáng sinh 2004, người viết đă thực hiện được tại tư thất của nguyên Trung tá Lư Thanh Tâm, một chuyên viên địa ốc thành công ở Springfields, Virginia, cựu bí thơ thân tín của ĐT Cao Văn Viên (CVV), một buổi mạn đàm thân mật bốn tiếng đồng hồ có ghi h́nh. Tướng Viên nhận trả lời cởi mở nhiều câu hỏi liên hệ đến đời công và tư của ông.

Đúng theo lời giao kết, toàn nội dung cuộc nói chuyện chưa được tiết lộ tới giờ này. Nay Đại tướng Viên quá yếu về sức khoẻ, người viết nghĩ đă đến lúc có thể công khai hoá vài điều tâm t́nh của ông. Đây cũng là cách nói lên sự nguỡng mộ đối với một người bạn thân quư, đồng thời một nhân chứng hàng đầu trong chính trường Miền Nam VN.

Dưới đây là những câu vấn đáp chính của cuộc mạn đàm giữa Đại tướng Viên (CVV) và ngưới viết (LLT) có thể tiết lộ trong phạm vi bài này:

LLT: Vào tháng 4.1975, năm cuối của cuộc chiến, VNCH có 1.100.000 lính tại ngũ, một trong những quân đội lớn nhứt ở Á châu. Lúc đó, Quân đoàn 4, với trên dưới 200.000 quân, chưa đánh một trận lớn nào, chưa một Tư lệnh nào bỏ chạy. Tại sao chúng ta lại thua CS mau như thế, trong hỗn loạn? có đáng thua hay không, thưa anh?

CVV (một phút suy nghĩ): Có nhiều lư do. Đây là một vấn đề phức tạp. Chỉ nói về phiá Hà Nội mà thôi, CS - dưới sự lănh đạo của Hồ Chí Minh - có kế hoạch xâm lăng Miền Nam ngay từ sau Hiệp định Genève, 1954. Hiệp ước Paris, 1973, đă bắc cầu thêm cho chúng, đánh dấu bước lùi cuối cùng của Thế giới Tự do. Kế hoạch thôn tính Miền Nam do Chính trị bộ nghiên cứu kỹ, thi hành liên tục, với quyết tâm chiến thắng bằng mọi giá, bằng mọi hy sinh. Hànội được đồng minh Nga, Tàu hổ trợ toàn lực, với khối xă hội chủ nghĩa đứng sau lưng. Bắc kinh và Mạc tư khoa không trực tiếp xen vào để chỉ huy. Tại Miền Nam, chúng ta thiếu các yếu tố thuận lợi ấy, chúng ta không liên tục trong sự lănh đạo. Với một đồng minh như Hoa kỳ, thử hỏi làm ǵ được? Đồng minh với Mỹ khó hơn là kẻ thù của Mỹ. VN không phải là quốc gia đầu tiên thí nghiệm bài học đau đớn này! VNCH chỉ là một con cờ trong chiến lược toàn cầu của đại cường Hoa kỳ. Chiến lược ấy đạt được mục tiêu sau khi Nixon gặp Mao Trạch Đông năm 1972 tại Bắc kinh.

LLT: Trong vụ nhóm Nguyễn Chánh Thi âm mưu đảo chính hụt ngày 11.11.1960, chuyện ǵ đă xảy ra cho anh? Anh biết ǵ về việc thương thuyết giữa Chánh văn pḥng Vơ Văn Hải (đại diện cho TT Diệm) và phe Vương Văn Đông? về vấn đề TT Diệm có trao cho tướng Nguyễn Khánh một tờ giấy viết tay cam kết trao quyền lại cho Quân đội, theo lời ông Khánh tiết lộ với tôi?

CVV Vài tuần trước đó, để giúp tôi làm việc dễ hơn, ông Quách Ṭng Đức, Đổng lư Phủ Tổng Thống, có cấp cho tôi, Tham mưu trưởng Biệt bộ, một căn nhà gần bệnh viện Grall và một chiếc xe Peugeot 202 mang số ẩn tế. Ngày 11 tháng 11, khi nghe tiếng súng đầu tiên nổ lớn, tôi đích thân lái xe đến Phủ đi ṿng phía vườn Tao Đàn. Một lính nhảy dù vơ trang tiểu liên, hùng hổ la to bảo ngừng xe, tôi chưa kịp quay kiến xuống để hỏi ất giáp th́ anh ta nổ súng, kiến trước bể tung, may phước tôi không bị thương. Vừa bước khỏi xe, tôi được lệnh đến ngồi dưới gốc một cây me với vài quân nhân bị bắt như tôi. Liền lúc đó, một xe jeep nhà binh trờ tới, anh lính nhảy dù vừa hô, vưà bắn xối xả vào xe, người tài xế chết tức tốc. Tôi không thấy tận mắt những ǵ diễn tiến sau đó tại Dinh Độc lập. Được biết tướng Khiêm về kịp để can thiệp, tướng Khánh nhảy rào giờ chót vào Dinh để chỉ huy. Phiến quân tan ră, số sĩ quan mưu loạn trốn qua Cam bốt, bắt theo tướng Thái Quang Hoàng làm con tin. CIA giúp Ls Hoàng Cơ Thụy, trong Bộ Tham mưu của Đông, thoát khỏi VN. Tôi nghĩ Hoa kỳ đă sử dụng cuộc đảo chính hụt ngày 11.11.1960 và vụ hai phi công Phạm Phú Quốc - Nguyễn Văn Cử ném bom Dinh Độc lập vào tháng 2.1962 như hai cảnh cáo, warnings liên tiếp đối với TT Diệm, trước khi tiến vào giai đoạn chót là lật đổ ông ngày 1.11.1963.

Tôi có nghe nói TT Diệm bảo ông Hải ra trước cổng Dinh điều đ́nh với phe phiến loạn. H́nh như họ yêu cầu ông bà Nhu phải ra đi. Bà Nhu lồng lộn phản đối đ̣i hỏi này khi ông Hải trở vào tŕnh với TT Diệm, trước thái độ im lặng của ông Nhu. Về chuyện ông Khánh tiết lộ, tôi không tin Tổng Thống Diệm sẵn sàng trao quyền lúc đó. Đây chỉ là một kế hoăn binh.

LLT: Sau khi Tổng thống Diệm bị đảo chính năm 1963, các tướng Miền Nam có được chuẩn bị về chính trị để lănh đạo cuộc chiến chống Bắc Việt hay không? Anh nghĩ sao về Hội đồng Quân nhân Cách Mạng? Nếu ông Diệm thoát khỏi cuộc đảo chính 1963 th́ anh nghĩ Miền Nam có thể tránh sụp đổ chăng năm 1975?

CVV Họ thiếu chuẩn bị về chính trị. Họ chia rẽ. Không ai có đủ khả năng và uy tín để thay thế Tổng thống Diệm. Nhóm đảo chính tự phong cho ḿnh danh xưng Cách mạng. Thật ra mục tiêu của họ là giết TT Diệm chớ không phải thay đổi tốt xứ sở. Bằng chứng là họ đă gây ra sau 1.11.63 hỗn loạn liên miên và tự loại. Không có một lănh tụ nào có tầm vóc hay cương lĩnh kiến quốc cở Nasser , Sukarno, Lư Thừa Vảng..

Để trả lời phần hai câu hỏi của anh: Ông Diệm là một lănh tụ được biết nhiều về mặt quốc tế, hơn ông Thiệu. Dù sao, ông chỉ là một symbol, một biểu tượng mà thôi, ông không thể làm ǵ nếu không có cố vấn Nhu bên cạnh. Tất cả các bài diễn văn của TT Diệm đều do ông Nhu soạn thảo. Khổ nỗi, Hoa kỳ muốn tách ông Nhu khỏi ông Diệm. Ông Nhu là một trở ngại. Trở ngại lớn hơn TT Diệm. V́ ông Nhu có nhiều mưu lược. Ông Nhu chống Mỹ hơn chống Pháp. TT Diệm th́ trái lại. Rốt cuộc, ông Diệm trở thành nạn nhân của Mỹ.

LLT: Việc Tổng thống Thiệu tom hết quyền bính trong tay, qua mặt Quốc hội và Tối cao Pháp viện, một ḿnh quyết định bỏ Cao Nguyên và Miền Trung là điều có lợi hay hại? Trong quyển hồi kư “Đôi ḍng ghi nhớ” (1994, trang 191-215), cựu Chánh văn pḥng của anh là đại tá Phạm Bá Hoa có kể lại cuộc rút quân bi thảm của tướng Phạm Văn Phú theo đường số 7 và nhắc lại hai khẩu lệnh của anh bằng điện thoại cho đương sự ngày 15 và 18.3.1975 bảo gởi phi cơ vận tải C130 cho Quân đoàn 2 và chở các quân dụng đắt tiền khỏi Pleiku “mà không cho biết lư do”. Ông Hoa than phiền Tổng Cục Tiếp vận, thuộc bộ Tổng Tham mưu, không hề được thông báo về t́nh h́nh suy sụp ở Cao Nguyên. Anh nghĩ sao về lờiï than phiền này?

CVV Tất nhiên không có lợi. Một cá nhân không thể quyết định đơn phương vận mạng của Đất nước. Ông Phạm Bá Hoa tŕnh bày không đúng về một số sự kiện trong quyển hồi kư mà tôi đă nhận được. Tôi có gởi cho y một bổn The Final Collapse được bổ túc để làm sáng tỏ vấn đề nhưng không thấy y nói ǵ. Phạm vi cuộc mạn đàm hôm nay không cho phép đi sâu vào chi tiết. Xin để dịp khác.

LLT: Anh có nghĩ rằng chuyện rút khỏi Miền Trung quá sớm, quá hấp tấp và thiếu chuẩn bị hay không? Đây có phải là một ván bài tố của TT Thiệu để thử coi Nixon có giữ lời cam kết riêng hay không? Trung tướng Ngô Quang Trưởng từng xác nhận với chúng tôi rằng đầu năm 1975, quân lực của chúng ta tại Miền Trung không quá yếu đến nỗi phải tháo chạy tán loạn như vậy, anh nghĩ sao?

CVV Không chuẩn bị. Về mặt quân sự, rút quân khó hơn tấn công. Khởi đầu nan, mọi sự đă hư do Mỹ cúp quân viện. Theo tôi, thời cuộc đă diễn ra ngoài ư muốn của tướng Trưởng, ông không làm ǵ được. Sau khi Ban Mê Thuột thất thủ ngày 10.3.1975, dân chúng vùng 1 nghe tin đồn Chính phủ sẽ cắt đất nhường cho địch nên họ hoảng sợ, tự động ào ào bỏ chạy, không ai ngăn nỗi. Trong bài “V́ sao tôi rút khỏi Miền Trung?” đăng trên báo, tướng Trưởng có nói rằng Bộ Tổng Tham Mưu không tăng quân số theo lời ông xin. Điều này không đúng. Hai đơn vị tổng trừ bị là sư đoàn thủy quân lục chiến và sư đoàn dù đă được tăng cường cho ông, mỗi sư đoàn gồm có bốn chiến đoàn. Trong tay tôi lúc ấy không c̣n ǵ nữa. Chính sách của Hoa Kỳ đă khóa tay chúng ta.

Tôi không đọc được sự suy tính thầm kín của TT Thiệu. Nay ông đă qua đời, hăy để ông ngủ yên. Anh c̣n nhớ TT Thiệu từng nói: “Je suis responsable mais pas coupable.” Mỗi Tổng thống có nỗi khổ tâm riêng. Vào việc rồi mới biết.

LLT: Tôi đă hỏi cựu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm (lúc c̣n sống) và Phó Thủ tướng Nguyễn Lưu Viên (hiện ở Virginia) kể từ lúc nào họ nhận thức được Miền Nam sụp đổ. Mỗi người trả lời khác nhau. Với tư cách Tổng Tham Mưu trưởng Quân đội VNCH, từ thời điểm nào anh thấy t́nh h́nh Miền Nam vô phương cứu chữa?

CVV Trước khi trả lời câu hỏi, tôi xin nêu ra một điểm: Trong quân sử, có trường hợp - nhưng rất hiếm - những tướng tài với ít quân thắng địch đông hơn. Đó là trường hợp của Alexandre Đại đế, của Nă Phá Luân... Về vấn đề tương quan lực lượng, bên nào có quân nhiều th́ bên đó ưu thế thượng phong. Khi Mỹ rút lui sau Hiệp định Bá Lê th́ họ tṛng vào cổ Miền Nam một chiếc dây tḥng lọng, lần hồi cúp quân viện để gây áp lực, hăm doạ đủ điều. Bắc Việt có quân số và vơ khí dồi dào hơn, không ngớt được tăng cường. Giữa Nam và Bắc, cán cân mỗi ngày thêm quá chênh lệch. T́nh thế hết mong cứu văn đối với Sàig̣n. Hiệp định Bá lê là án tử h́nh cho Miền Nam . Mỹ đánh mà không muốn thắng, họ sợ thắng. Phần th́ phong trào phản chiến sôi sục bên trong Hoa kỳ. X́-căn-đan Watergate đă xúc tiến sự bức tử của VNCH.

LLT: Anh có nghĩ rằng quyết định giết Tổng thống Diệm sớm làm Miền Nam sụp đổ hay không? Chuyện ǵ đă xảy ra cho cá nhân anh ngày 1.11.1963?

CVV Giết ông Diệm là một lỗi lầm nguy hại. Ngày 1.11.63, tôi là đại tá tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù (thay thế Nguyễn Chánh Thi). Khi Hội đồng Cách mạng hỏi tôi có ủng hộ phe đảo chính hay không, tôi trả lời: “Lật đổ Chính phủ là một chuyện quốc gia đại sự, tôi không được hỏi ư kiến trước. Tôi chỉ là một quân nhân, không làm chính trị.” Quân cảnh liền c̣ng tay tôi, tôi ngồi chờ trước cửa văn pḥng ông Dương Văn Minh. Tôi tự hỏi: Sẽ chung số phận với Lê Quang Tung, Hồ Tấn Quyền chăng? Ông Tôn Thất Đính bước ra can thiệp mở c̣ng cho tôi. Hôm sau, tôi được thả nhưng bị quản thúc tại gia ở đường Ngô Quyền, Chợ Lớn. Lối một tuần sau, tôi về chờ lệnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tôi vô cùng chán nản, không tha thiết ở lại Quân đội v́ t́nh huynh đệ chi binh không c̣n nữa, anh em một nhà giết hại lẫn nhau. Nếu có lệnh đẩy tôi làm tùy viên quân sự tại Lào, tôi chấp nhận ngay. Vientiane là nơi tôi ra đời. Tên tôi, Viên, là vần đầu tiên của thủ đô Vientiane .

Một hôm, trong khi ngồi rầu tại văn pḥng, tôi bổng nhận được cú điện thoại của vợ tôi. Bà hỏi: “Buồn lắm hả?” Nước mắt tôi tự nhiên trào lên. Vợ tôi tiếp: “Nếu ‘người ta’ đưa anh trở lại chỉ huy nhảy dù, anh chịu không?” Tôi nghẹn lời v́ không thể tin được. Do sự dàn xếp sao đó mà tôi không được biết giữa vợ tôi và bà Trần Thiện Khiêm (hai người thân thiết với nhau), tôi nhận được sự vụ lệnh, ordre de mission, của tướng Khiêm, Tham mưu trưởng Liên quân, đưa tôi về nắm lại Nhảy dù. Ông Khiêm cho tôi biết mật rằng đây là một quyết định riêng của ông, chắc sẽ gặp phản ứng v́ không hỏi ư kiến cấp trên. Đúng vậy, việc bổ nhiệm chính thức bằng một công vụ lệnh, ordre de service thuộc thẩm quyền Tổng tham mưu trưởng Quân đội. Một thời gian ngắn sau, ông Khiêm mất chức Tham mưu trưởng Liên quân, bị đổi về chỉ huy Quân đoàn 3. Vài ngày trước 30.1.1964, Khiêm điện thoại kín cho tôi, hỏi: “Sẵn sàng chưa?”. Đây là ám hiệu hành động. Đêm 30 tháng giêng, lữ đoàn dù của tôi giúp hai trung tướng Nguyễn Khánh và Trần Thiện Khiêm chỉnh lư phe Dương Văn Minh. Việc “hốt” các tướng “trung lập” thực hiện dễ như trở bàn tay. Không đổ máu, không tốn một viên đạn v́ sau 1.11.1963, các tướng này đều dùng quân dù của tôi để canh gác nhà họ. Thật như “gởi trứng cho ác!” Việc tôi giúp ông Khiêm là chuyện dĩ nhiên, để đáp ơn “thả hổ về rừng”. Tôi không để ư đến điểm Minh, Đôn, Đính, Xuân và Kim có thật sự chủ trương trung lập hay không.

LLT: Ai ra lệnh giết anh em Tổng thống Diệm? Ai thi hành lệnh ấy?

CVV Chính tướng Dương Văn Minh đă ra lệnh giết hai ông Diệm và Nhu. Nguyễn Văn Nhung, vệ sĩ của Minh, thăng Thiếu tá sau vụ ám sát, có nhiệm vụ thi hành lệnh dưới sự giám sát của hai tướng Mai Hữu Xuân và Nguyễn Văn Quan (người thay Đổ Mậu trong chức Tổng giám đốc An ninh Quân đội). Nhung bị An ninh Quân đội bắt trong vụ chỉnh lư nói trên và đem về giam tại Lữ đoàn dù của tôi. Hôm sau, tôi được phúc tŕnh Nhung đă tự treo cổ bằng một sợi dây giày nhà binh. Có lẽ v́ Nhung biết không tránh khỏi tử h́nh nếu bị giải ra trước Toà v́ Nhung phạm quá nhiều tội ác.

LLT: Trong hồi kư “ Vietnam. Histoire secrète d’une victoire perdue” (nxb Perrin, Paris, 1986), giám đốc CIA William Colby xác nhận kế hoạch Ấp Chiến Lược, Strategic Hamlets (mà ông Ngô Đ́nh Nhu là cha đẻ) làm Bắc Việt khiếp đảm v́ rất hữu hiệu. Đúng như vậy không? V́ sao Hội đồng Cách Mạng lại hủy bỏ kế hoạch ấy?

CVV Kế hoạch Ấp Chiến Lược là một việc phải làm để tách CS ra khỏi nhân dân, tách cá khỏi nước, như đă từng thí nghiệm tốt ở Mă Lai với tướng Robert Thompson. Tại VN, có những sơ sót trong việc thi hành bởi một số tỉnh trưởng dàn cảnh, để lấy điểm với thượng cấp. Thay vi chỉnh đốn lại để tăng hiệu lực, Dương Văn Minh và HĐCM đă hấp tấp hủy bỏ kế hoạch Ấp Chiến Lược liền sau vụ đảo chính v́ lư do họ thù ông Nhu. Họ thay vào đó cái mà họ gọi là Ấp Tân Sinh. Đây là một lỗi lầm ghê gớm. Tôi không biết rơ họ đă thảo luận với nhau ra sao. Lữ đoàn dù, do tôi chỉ huy lúc đó, bị nghi trung thành với ông Diệm nên không được hành quân, chỉ được giao làm những công tác vớ vẩn tại vùng Long An, Mỹ Tho.

LLT: Nếu so sánh TT Diệm với TT Thiệu th́ ai độc tài hơn ai? Xin so sánh hai đảng Cần Lao (của ông Diệm) và Dân chủ (của ông Thiệu).

CVV Mỗi người độc tài theo cách riêng. TT Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm sinh chống cộng, tự ban cho ḿnh “thiên mạng” cứu nước. Có lẽ anh c̣n nhớ vụ ông tỉnh trưởng B́nh Tuy săn được một con hà mă, dấu cái sừng tê giác, không khai báo. Khi hay được, cụ Diệm nổi trận lôi đ́nh, cách chức và đ̣i giam viên tỉnh trưởng về tội “tẩu tán tài sản Nhà nước.”

TT Diệm tự hào về dân tộc, tự đại về gia đ́nh, thích độc thoại, không chấp nhận dễ dàng sự chỉ trích. Ông chủ trương “tiết trực tâm hư.” nhưng bị ảnh hưởng nặng của gia đ́nh. C̣n ông Thiệu th́ theo đường lối “độc tài trong dân chủ”, vỏ ngoài dân chủ nhưng bên trong chi phối cả hai ngành lập pháp và tư pháp. Bàn tay sắt trong đôi găng nhung.

V́ không vững kiến thức như ông Diệm, ông Thiệu chịu khó thăm ḍ ư kiến của các chuyên viên, lắng nghe, đúc kết lại để quyết định một ḿnh. TT Diệm dễ tin người xu nịnh nên dễ bị phản trắc. Ông Thiệu đa nghi Tào Tháo và không e ngại ban phát ân huệ để tạo phe cánh và chia rẽ đối phương như ông đă làm tại Quốc hội. Ông chủ trương “làm chính trị phải ĺ”. Bởi thế TT Thiệu “lật” ông Kỳ không khó và tồn tại lâu hơn TT Diệm nhưng ông không khí khái bằng ông Diệm. Ông Thiệu mưu sĩ, ông Diệm đạo đức. Những năm tại chức, Ông Thiêu bị ám ảnh bởi cái chết của TT Diệm. Đảng Cần Lao - dựa vào thuyết Cần Lao Nhân Vị - tổ chức quy củ hơn, với sự chỉ huy trực tiếp của hai ông Nhu và Cẩn, đi sâu vào Quân Đội với các quân ủy, như CS. Đảng Dân chủ yếu hơn, không dựa vào cương lĩnh vững chắc nào, chỉ có h́nh thức, được ông Thiệu thành lập để củng cố địa vị, không có ảnh hưởng trong Quân đội và quần chúng. Tôi không có gia nhập Đảng Cần Lao.

Theo tôi được biết, vào giờ phút chót tháng 11.1963, TT Diệm cho đại sứ Cabot Lodge biết ông sẳn sàng điều đ́nh một giải pháp nhưng đă quá trể, phe chủ trương “diệt Diệm” trong Bộ Tham mưu của John Kennedy thắng thế. Les dés sont jetés! Les jeux sont faits!

LLT: Trong hồi kư Our Endless War và Việt Nam Nhân chứng, tướng Trần Văn Đôn ghi rằng trong tất cả các vụ chính biến ở Miền Nam từ 1960 trở về sau, đại tướng Trần Thiện Khiêm đóng vai tṛ chủ động, giựt dây sau hậu trường, điều này có đúng hay không?

CVV Tôi không biết rơ. Tôi chỉ liên hệ với tướng Khiêm về công vụ. Chúng tôi quen nhau từ hồi c̣n ở trong Quân đội Pháp, sau khi tôi ra trường Vơ bị Cap Saint Jacques, Vũng Tàu, năm 1949. Vợ tôi là bạn thân của bà Khiêm. Ông Khiêm có lần tuyên bố không thích chính trị. Nhưng nói và làm là hai chuyện khác biệt!

LLT: Nới trang 428-429 của hồi kư “Việt Nam Nhân Chứng” (nxb Xuân Thu,1989), tướng Trần Văn Đôn viết: “Có lần ông Thiệu than phiền ông Cao Văn Viên không làm việc nhiều. Ông Thiệu nhờ tôi nói với Đại tướng Viên, Tổng Tham Mưu trưởng, về việc ông này cứ ở măi Tổng Tham mưu làm việc, không chịu đi ra ngoài, ông Viên trả lời: Tôi đă xin từ chức mấy lần mà ông Thiệu không chấp nhận nên tôi cứ ở văn pḥng làm việc mà thôi!” Mặt khác, trong quyển hồi kư “Đôi ḍng ghi nhớ” nêu trên, cựu đại tá Phạm Bá Hoa cũng có nhận xét rằng trong gần 9 năm rưỡi giữ chức Tổng Tham Mưu trưởng - chức vụ quan trọng bậc nhất trong Quân đội - anh đă nhiệt t́nh hoạt động 7 năm đầu nhưng hai năm sau cùng, vị “Nguyên soái” của Quân đội Miền Nam không cáng đáng hết trách nhiệm, đến văn pḥng cho có lệ, tập luyện yoga và đi học lấy bằng cử nhân văn khoa ngoài giờ làm việc. Mong anh đại tướng vui ḷng, nếu tiện, giải thích thái độ.

CVV Tôi sẵn sàng trả lời. Trước khi cuộc đàm phán tại Paris tiến đến giai đoạn kết thúc năm 1973, t́nh h́nh quân sự thêm căng thẳng. Tổng thống Thiệu, với tư cách Tổng tư lệnh Quân đội, tập trung hết quyền bính trong tay, cho đặt một hệ thống máy truyền tin tại Dinh Độc lập để liên lạc thẳng với các quân khu, điều động các đơn vị, bổ nhiệm tư lệnh vùng và ra lệnh trực tiếp hành quân. Bộ Tổng Tham Mưu lần hồi bị dồn vào vai tṛ tuân hành và thị chứng. Bộ Quốc pḥng chỉ c̣n là hộp thơ giữa Tổng thống và Bộ Tổng tham mưu. V́ không có điều kiện làm việc được như trước, tôi đă năm, sáu lần vô đơn xin từ chức. Ông Thiệu yêu cầu tôi nán lại, đợi người thay thế nhưng ông không quyết định. Tôi không có quyền bỏ ra đi một cách vô trách nhiệm.

Tuy nhiên khi Tổng thống Trần Văn Hương nhường ghế cho tướng Dương Văn Minh tháng 4.1975, tôi cương quyết xin giải ngũ v́ tôi không phục ông Minh từ lâu, tôi từng là nạn nhân của ông Minh. TT Hương chấp nhận đơn của tôi. Ngày 27.4.1975, tôi rời VN trong t́nh trạng hợp lệ.

Vấn đề tôi tập luyện yoga và thiền có một lư do riêng. Khi giữ chức tư lệnh nhảy dù, tôi vướng phải một bệnh nan y về khớp xương, một loại phong thấp nặng, gây nhức nhối vô cùng. Tôi giữ kín việc này, t́m cách tự trị liệu. Là chỉ huy nhảy dù mà bệnh hoạn, không nhảy được th́ coi kỳ quá, không c̣n ǵ thể thống. Tôi đă thử đủ thứ thuốc Tây lẫn Ta, mọi thứ dược thảo, nhân điện, dưỡng sinh, tổ ong chính gốc, v.v.., Tôi đă lợi dụng một cuộc viếng thăm chính thức Đài Loan để t́m hiểu khoa châm cứu. Bệnh t́nh không thuyên giảm với thời gian, với tuổi tác.

Về chuyện đi học văn khoa, môn tôi thích từ lúc c̣n trẻ, tôi thấy cần trau dồi thêm kiến thức. Đó cũng là một lối thoát khỏi những chuyện bực bội của cuộc sống căng thẳng hằng ngày.

LLT: Anh nghĩ ǵ về vụ Phật giáo chống TT Diệm năm 1963? Về vụ Phật gíáo nổi loạn ở Miền Trung đầu 1966? Vai tṛ của Hoa kỳ trong hai vụ? Tại sao Hoa Thịnh Đốn có thái độ khác nhau trong hai trường hợp? Theo Trần Văn Đôn (hồi kư VNNC, trang 372) th́ trong vụ thứ hai, có trên 200 người chết và bị thương, lối 6.000 quân nhân đào ngũ và một số người chạy vào chiến khu Việt cộng. Có đúng như thế hay không?

CVV Phật giáo thống nhất hơn khi chống ông Diệm, vai tṛ của Thích Trí Quang quá rơ. Có tay Hoa kỳ và CS nhúng vào. Trong vụ Phật tử dấy loạn ở Miền Trung, Phật giáo chia làm hai khối Ấn Quang (Thích Trí Quang, chống Chính phủ) và Vĩnh Nghiêm hay VN Quốc Tự (Phật giáo Bắc Việt di cư với Thích Tâm Châu, thân Ủy ban lănh đạo Thiệu Kỳ). Mặt khác, một số tư lệnh Quân đoàn 1 có cảm t́nh với phiến loạn như Nguyễn Chánh Thi, Tôn Thất Đính, trong khi Nguyễn Văn Chuân và Huỳnh Văn Cao th́ lừng khừng. (Cao và Đính chạy vào Bộ Tư lệnh Thủy Quân Lục chiến Mỹ ở Đà Nẳng xin tị nạn chính trị). V́ thế có một lúc Miền Trung gần như không có Chính phủ: Thị trưởng Đà Nẳng, Bs Nguyễn Văn Mẫn, cũng như đa số quân nhân, công chức,… tuân lệnh của tăng ni đem bàn thờ Phật xuống đường biểu t́nh. Phong trào có nguy cơ lan tràn xuống Miền Nam, làm tiêu chế độ. Tướng Kỳ, chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, xin tôi (lúc đó Tổng Tham mưu trưởng) đổ quân tái chiếm Đà nẳng, mặt khác yêu cầu tôi cấp gần 20.000 cây súng cũ của Pháp (Mass 36, tiểu liên, lựu đạn...) cho Nguyễn Ngọc Loan, TGĐ Công an - Cảnh sát, hầu vơ trang các đảng phái ở Miền Trung lập thăng bằng với lực lượng Phật giáo. Tôi đề nghị để tướng Loan hành động trước. Hai tuần sau, t́nh h́nh thêm nguy kịch. Tôi quyết định can thiệp. Theo lối của tôi: tương kế tựu kế. Lúc đó, tôi có một tiểu đoàn thủy quân lục chiến đang hành quân tại B́nh Định. Tôi ra lệnh chính thức cho đơn vị này tập trung đúng ngày, giờ ấn định, tại sân bay Quảng Ngăi nói là để không vận về Sàig̣n, thay bằng một tiểu đoàn khác. Phải dùng mưu ấy để đánh lạc hướng Viện Hoá Đạo có người gài khắp nơi. Đêm hôm đó, đúng 12 giờ, tôi đưa thêm 4 tiểu đoàn khác nhập chung với tiểu đoàn có sẵn, thành 5, giao cho đại tá Ngô Quang Trưởng chỉ huy, tràn vô các chùa bắt các phần tử nguy hiểm, giải tán bằng biện pháp mạnh các ổ dân quân, buộc họ buông súng. Cuộc hành quân cương quyết này đă đem lại kết quả. Trong hồi kư “The Buddha’s Child”, Nguyễn Cao Kỳ ba hoa dành hết công trạng về ḿnh.

Tôi không thể xác nhận với anh về những thiệt hại sinh mạng. Con số của tướng Đôn đưa ra có vẻ quá đáng. Dù sao, Hoa Thịnh Đốn không lên tiếng phản đối như đă làm thời TT Diệm. Về phía Hoa kỳ, cần ghi rằng ông tổng lănh sự Mỹ tại Đà Nẳng nghiêng theo phía Phật giáo, trong khi toà Đại sứ Mỹ tại Sàig̣n giữ thái độ thận trọng wait and see, nếu không nói đồng ư ngầm với Ủy Ban Lănh đạo quốc gia. Thật vậy, năm 1963 đại sứ Cabot Lodge ra mặt ủng hộ Phật giáo v́ TT Diệm chống việc Mỹ hóa chiến tranh. Năm 1969, t́nh h́nh thay đổi, Hoa kỳ cần giữ lại ê-kíp Thiệu Kỳ và bắt đầu Việt nam hoá cuộc chiến. Từ đồng minh, cánh Phật giáo thiên tả đă biến thành đối lập với Mỹ.

Kết luận

Trên đây là những đoạn - buồn nhiều hơn vui - trích từ bộ VCR mạn đàm với đại tướng Cao Văn Viên. Phần c̣n lại, không kém hệ trọng, sẽ phổ biến khi thuận tiện. Với một nụ cười mệt mỏi, hơi thở phều phào, (v́ lúc ấy sức khoẻ của ông đă rất suy kém, thân h́nh của ông co rút lại), Tướng Viên - một sĩ quan có tiếng “bô trai” trong Quân đội, - kết thúc bằng một câu nói khiêm nhường: “Xin đừng xem những lời của tôi là lịch sử. Mỗi người giải thích sự thật theo lối riêng, như trong phim “Rashomon”. Một trăm chứng nhân, một trăm sự thật. Định kiến làm cho lịch sử sai lệch. Tôi chỉ tâm t́nh với ḷng thành. Hảy để cho hậu thế lượng định và phân xét. Chưa thấy quan tài, chưa đổ lệ” .

Đại tướng Cao Văn Viên sẽ lưu lại trong kư ức các người từng biết ông - thân hữu, bạn đồng đội như kẻ bất đồng ư kiến - h́nh ảnh của ḷng chung thủy, “trước sau như một”, không a dua, không phản trắc, từ tốn khi phê b́nh, chủ trương đoàn kết trong t́nh huynh đệ chi binh. Ông không bon chen trên chính trường, không đạp trên xác đồng đội để tiến thân. Ông là một nhà tướng phi chính trị bị thời thế cuốn hút vào chính trường gió tanh mưa máu. Khi hai địch thủ Thiệu, Kỳ dành giựt với nhau cân đai, áo măo, Hội đồng Quân lực định đưa ông Viên lên chức Quốc trưởng v́ ông là vị tướng có thâm niên nhứt. Ông đă một mực từ chối v́ nhận thức lương thiện khả năng của ḿnh. Tuy nhiên ông vẫn không tránh được số phận một con thiêu thân - trong vô số con thiêu thân khác - bị chiến tranh Việt Nam đốt cháy.

West Virginia tháng 12 năm 2004

Tướng Hiếu, Một Thiên Tài Quân Sự?
Các Tướng Lănh QLVNCH
generalhieu