Tướng Bùi Thế Lân


Tâm Sự Cọp Biển

Sau khi nhận chức Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy quân Lục chiến, ngày 5 tháng 4 năm 1972, được vài tháng th́ tôi được chỉ thị Trung Ương soạn thảo kế hoạch cùng các đơn vị Nhảy Dù và Bộ Binh địa phương để tái chiếm Quảng Trị bằng mọi giá. Lúc đó tất cả đều do Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 chỉ huy. Chúng tôi được lệnh tham chiến toàn bộ Sư Đoàn TQLC gồm 3 Lữ Đoàn ṇng cốt 147, 258 và 369.

Cuộc hành quân được khởi sự vào cuối tháng 6 năm 1972 và Thủy Quân Lục Chiến đi từ Quốc lộ 1 ra bờ biển hàng ngang đánh tiến ra Quảng Trị. Tôi chỉ thị cho Đại tá Bảo, Lữ đoàn Trưởng Lữ Đoàn 147 và Đại tá Định, Lữ đoàn trưởng Lữ Đoàn 258 cho rải quân hàng ngang từ Quốc lộ 1 cho đến ven bờ biển và hành quân tiến về hướng Bắc. Khu vực từ Quốc lộ 1 tiến vào núi thuộc vùng trách nhiệm của Sư Đoàn Nhảy Dù. Đồng thời tôi chỉ thị cho Đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng 369 đóng lại ở Mỹ Chánh để trừ bị. Cuộc hành quân tái chiếm Quảng Trị thật gay go và làm thiệt hại cũng như bị thương rất nhiều cho anh em mang cùng màu áo với tôi, đó là điều làm tôi vô cùng đau xót, nhất là v́ tôi không ngờ đă phải đánh đổi một giá quá cao như vậy. Sáng 16 tháng 9 năm 1972, anh em chúng tôi vào được Cổ thành Quảng Trị. Và cờ vàng ba sọc đỏ của VNCH được tung bay trên cột cờ Quảng Trị sau một thời gian vắng bóng. Và công việc mà tôi phải chu toàn gấp trong thời gian đó là vấn đề bổ sung quân số cho các đơn vị trực thuộc. V́ số tử thương khá cao nên tôi phải xoay sở lắm mới xong việc bổ sung cho Sư Đoàn.

Đầu tháng 2 năm 1975, tôi được lệnh thành lập thêm một Lữ đoàn nữa, đó là Lữ đoàn 468 gồm 3 tiểu đoàn 14, 16 và 18. Tôi chỉ thị cho Đại tá Định về Sài g̣n để lo vấn đề thành lập Lữ đoàn 468. Đến cuối tháng 2/75 th́ Lữ đoàn 468 đă được thành lập xong và được biệt phái ngay cho Quân đoàn 3 hành quân vùng Long An và Hậu Nghĩa. Tất cả ba Lữ đoàn 147, 258 và 369 ở lại đóng giữ Quảng Trị cho đến ngày 12 tháng 3 năm 75 th́ tôi được lệnh của Trung tướng Ngô Quang Trưởng cho rút Thủy Quân Lục Chiến từ Quảng Trị vào Đà Nẵng thay cho Sư đoàn Nhảy Dù được lệnh về Sài g̣n.

Trung tướng Trưởng ra lệnh cho tôi chỉ đưa về Đà Nẵng 2 Lữ đoàn 147 và 258 thôi. C̣n Lữ đoàn 369 được tăng phái cho Trung tướng Lâm Quang Thi là Tư lệnh tiền phương tại Huế. Ngày 15 tháng 3 năm 75, Lữ đoàn 468 được không vận từ Sài g̣n ra Đà Nẵng.

Ngày 17 tháng 3 năm 75, Lữ đoàn 147, 258 và 468 của TQLC đă bàn giao nhận khu vực trách nhiệm bảo vệ ṿng đai Đà Nẵng từ đèo Hải Vân trở vào do Sư Đoàn Nhảy Dù giao lại. Riêng Lữ đoàn 369 th́ được đưa vào Huế dưới quyền chỉ huy của Tướng Thi kể từ ngày 15 tháng 3 năm 75. Hàng ngày tôi vẫn bay ra thăm các đơn vị của tôi ở Huế theo hệ thống hàng ngang. V́ các đơn vị của Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến thuộc thành phần Tổng trừ bị nên khi đă biệt phái cho các vùng th́ được đặt trực tiếp chỉ huy hệ thống dọc của các vị Tư Lệnh Quân Đoàn, c̣n tôi chỉ có quyền thăm h?i, giúp đỡ anh em thuộc cấp theo hệ thống ngang thôi chớ không có quyền ǵ hơn.

Chiều 23 tháng 3 năm 75, lúc 5 giờ, tôi đang bay đi thåm các đơn vị ở Đà Nẵng th́ được lệnh về gặp Trung tướng Trưởng ở Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1. Tôi đáp máy bay ở sân Bộ Tư Lệnh Quân đoàn 1 đi bộ vào th́ gặp Chuẩn tướng Lê văn Điềm, Tư Lệnh Sư đoàn 1/ Bộ Binh đi ra với vẻ mặt buồn bă. Tôi chào hỏi Chuẩn tướng Điềm. Và tôi nói rằng "Điềm ơi ráng lo đi, t́nh h́nh bây giờ ở đâu cũng khó khăn cả." Chuẩn tướng Điềm chỉ lắc đầu buồn bă tạm biệt tôi và không nói một lời nào cả. Tôi vào văn pḥng gặp ngay Trung tướng Trưởng và Trung tướng Trưởng nói với tôi rằng: "Tôi đă cho lệnh bỏ Huế rồi." Nghe tin như sét đánh, tôi hỏi ngay Trung tướng Trưởng: "Khi nào ḿnh sẽ rút?" Trung tướng Trưởng với đôi mắt buồn bă như một bác sĩ có tài nh́n đứa con thân yêu của ḿnh sắp bị chết, ḿnh đủ khả năng chữa trị cứu sống nó, nhưng hai tay bị trói đe chỉ đứng nh́n mà thôi. Thật đau sót biết bao! Và Trung tướng Trưởng chỉ trả lời trong nghẹn ngào đúng hai chữ: "Đêm nay".

Tôi thông cảm Trung tướng Trưởng hơn ai hết nên đành từ giă trở về hậu cứ liên lạc ngay Đại tá Tŕ, Tư lệnh phó Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, lúc đó đang đại diện tôi ở cạnh Bộ Tư Lệnh Tiền Phương ở Huế dưới quyền Trung tướng Thi. Tôi hỏi Đại tá Tŕ có nhận được lệnh không, Đại tá Tŕ trả lời: "Tôi đă nhận lệnh rút quân về Đà Nẵng". Và tôi có hỏi kế hoạch rút quân như thế nào th́ được biết là "rút theo đường biển, đi dọc theo sát bờ biển và sẽ có tàu đến đón".

Lúc bấy giờ Bộ Chỉ Huy của Lữ đoàn 369 đang ở tại căn cứ Tân Mỹ ở cửa Thuận An, Huế. C̣n các đơn vị th́ 2 tiểu đoàn đang ở An Lộ và một tiểu đoàn đang ở Bắc quận Hương Điền và Nam Mỹ Chánh, Huế.

Theo kế hoạch dự trù, như đă nói, tôi được biết là sẽ rút quân theo đường biển, nghĩa là tất cả các đơn vị của tôi và của Sư Đoàn 1 Bộ Binh của Chuẩn tướng Điềm sẽ ra cửa Thuận An và sẽ có tàu Hải Quân và LCU Quân vận vào đón. Nhưng v́ lệnh rút lui quá nhanh, quá đột ngột, nên các đơn vị không chu toàn được, không th́ hành đúng theo kế hoạch rút quân. Do đó, các đơn vị của Lữ đoàn 369 đă rút theo phương tiện tự túc. Một số rút theo đường bộ dọc Quốc lộ 1 vào Đà Nẵng, bị Việt cộng phục kích chận đánh thiệt hại rất nặng. Một số theo Đại tá Lương đi bộ dọc theo bờ biển đi về phía Nam, được một số tàu Hải quân và LCU vào đón. Đại tá Lương, Lữ đoàn trưởng 369 bị thương ở chân trong lúc cố gắng đưa các anh em ra LCU đang lềnh bềnh ngoài biển. Đại tá Tŕ, Tư lệnh Phó Sư đoàn TQLC theo một LCU của Hải quân về Đà Nẵng. Tổng kết bi thảm là chỉ một số nhỏ anh em TQLC thoát hiểm bằng đường bộ và đường thủy, c̣n bao nhiêu bị tử thương hay bị kẹt lại Huế. Số phận anh em rút theo đường biển c̣n bi thảm hơn: Rút quân dọc theo bờ biển với trên 110 cây số từ Huế vào Đà Nẵng th́ anh em TQLC có thể đi bộ được, nhưng khi đến ngang Phá Tam Giang ở cửa Tư Hiền th́ có con sông chắn ngang r¤ấ rộng, mà bên kia sông th́ VC đă chiếm rồi. Nên anh em TQLC cũng như Bộ Binh Sư đoàn 1 lội sang rất khó khăn. Và nếu có lội sang th́ cũng bị VC bên kia sông bắt hết. Tóm lại ké hoạch rút quân của các đơn vị ở Huế, đều không được thi hành v́ không có phương tiện và lệnh rút ban ra quá nhanh, không đủ th́ giờ chuẩn bị rút quân. Về Đà Nẵng, Đại tá Lương được tôi đưa vào bệnh viện TQLC chữa trị v́ vết thương ở chân khá nặng.

Chiều 29 tháng 3 năm 75, tôi được lệnh bay sang họp với Trung tướng Ngô Quang Trưởng tại Bộ Tư lệnh Hải quân vùng 1 Duyên Hải. Tôi vào văn pḥng của Đô Đốc Hồ văn Kỳ Thoại và gặp Trung tướng Trưởng, Trung tướng Thi và Đô Đốc Thoại.

Tám giờ tối ngày 29 tháng 3 năm 75, Trung tướng Trưởng ngồi ở bàn giấy của văn pḥng Đô Đốc Thoại gọi điện thoại về Sài g̣n nói chuyện. Chúng tôi ngồi ở Sa lông chờ đợi. Tôi không nghe được những lời đối thoại giữa Trung tướng Trưởng với TT Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng ít phút sau, nh́n thấy đôi mắt đỏ ngầu, khuôn mặt buồn bă và những lời đối thoại vắn tắt của tướng Trưởng, tôi cũng đoán được một phần nào những việc chẳng lành sắp đến cho anh em chúng tôi. Rời điện thoại, Trung tướng Trưởng tiến về phía chúng tôi. Với vẻ mặt buồn thảm, giọng nói nghẹn ngào ông nói: "Lệnh bỏ Đà Nẵng." Chúng tôi đứng lặng người như bị sét đánh. Suốt cuộc đời binh nghiệp tôi chưa bao giờ được nghe một mệnh lệnh làm tê điếng như thế. Tôi không ngần ngại hỏi lại Tướng Trưởng: "Thưa Trung tướng ḿnh phải bỏ Đà Nẵng?" Tướng Trưởng trả lời: "Đúng thế". Và ông lặng lẽ không nói thêm một lời.

Mười phút sau khi Trung tướng Trưởng ban hành lệnh bỏ Đà Nẵng cho anh em chúng tôi th́ VC pháo kích ngay vào Trung Tâm Hành quân của BTL/HQ/VIZH, trúng ngay sau văn pḥng của Đô Đốc Thoại, chỗ chúng tôi đang ngồi. Đạn pháo kích như mưa, càng lúc càng gia tăng, rơi cùng khắp căn cứ... Đến 9 giờ tối, Chuẩn tướng Hinh, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh đáp trực thăng vào gặp Trung tướng Trưởng và sau khi nhận chỉ thị, Chuẩn tướng Hinh đă bay về hậu cứ. Sau đó Trung tướng Thi cũng bay ra chiến hạm Mỹ, v́ đă hết nhiệm vụ. Khoảng 9 giờ 45 Trung tướng Trưởng ra máy bay trực thăng riêng để về lại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1. Nhưng máy bay đă bị đạn pháo kích hư không sử dụng được. Tôi bèn đề nghị Trung tướng Trưởng lấy máy bay riêng của tôi th́ cũng bị hư v́ đạn pháo kích luôn.

Sau đó, Trung tướng Trưởng trở vào lại văn pḥng Đô Đốc Thoại. Tôi và Đô Đốc Thoại th́ liên lạc các chiến hạm để t́m cách di chuyển anh em Thủy quân Lục chiến. Đến 10 giờ 15 phút th́ Đại tá Phước, Không đoàn trưởng Không đoàn 63 lái một trực thăng loại tải thương đáp xuống sân cờ Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải, và vào gặp Trung tướng Trưởng xin chỉ thị. Sau đó tôi đă tiễn đưa Trung tướng Trưởng ra chiếc trực thăng này để đưa Trung tướng về Bộ Tư Lệnh QĐ1. C̣n phần tôi, tôi trở lại văn pḥng của Đô Đốc Thoại lo phối hợp giải quyết vấn đề phương tiện rút quân cho các đơn vị trực thuộc Quân Đoàn 1 và TQLC.

T́nh h́nh càng lúc càng trầm trọng. Việt Cộng pháo vào phi trường Đà Nẵng và Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 1ở· thành phố Đà Nẵng. Các chiến hạm và tàu bè đă rời khỏi căn cứ của BTL/HQ/VIZH và CCYT/TV/ĐN. Pḥng hành quân bị trúng pháo hư hại. Đô Đốc Thoại và tôi không c̣n một phương tiện nào trong tay nữa. Nên chúng tôi phải đi bộ quanh sau các mỏm đá dọc theo bờ biển ra sau băi trước Ḥn Sơn Chà. Và may khi đó có một ghe Hải quân đi ngang gần đó. Đô Đốc Thoại đă cho lệnh gọi chiếc ghe đó vào th́ được biết đó là ghe của Hải quân do Thiếu tá Hy chỉ huy. Khi Thiếu tá Hy nghe nói trên bờ có Đô Đốc Thoại, nên đă la lớn rằng, "Nếu có Đô Đốc Thoại ở trong bờ th́ xin Đô Đốc hăy lên tiếng cho tôi nhận ra tiếng th́ tôi mới vào". Đô Đốc Thoại phải ráng hết ḿnh la lớn v́ trời tối, gió thổi mạnh, sóng to, biển khá động, nên rất khó nghe, hơn nữa, chúng tôi ở cách xa ghe gần nửa cây số.

Đô Đốc Thoại nói lớn: "Tôi là Đô Đốc Thoại đây! Anh em vào đón tôi với." Sau đó, Thiếu tá Hy, người đă từng làm đơn vị trưởng nhiều năm dưới quyền Đô Đốc Thoại đă nhận ra đúng giọng quen thuộc của người anh cả đă chỉ huy ông ta trong thời gian qua, bèn cho ghe Yabuta vào sát để đón Đô Đốc Thoại và tôi, cùng một số anh em Hải quân đi theo chúng tôi, chở thẳng ra cập HQ 802 của Hải Quân Trung tá Vơ Công làm Hạm Trưởng. Lên tàu này chúng tôi đă thấy có Chuẩn tướng Hinh, Tư Lệnh SĐ3/BB ở đó. Kế đén, tôi lại gặp ngay Đại tá Quế, TTM/SĐ/TQLC cũng có ở đấy.

Ngay sau đó, tôi nhờ hệ thống truyền tin Hải quân của chiến hạm để liên lạc các đơn vị ở trong bờ. Trong lúc đó anh em TQLC được chia làm hai nhóm. Một nhóm ở ngay Tiên Sa gần khu vực của Bộ Tư Lệnh HQ/VIZH. Và một nhóm ở căn cứ Non Nước, do Đại Tá Tŕ Tư lệnh Phó SD/TQLC chỉ huy. Chúng tôi đă được một số chiến hạm của Hải quân vào gần băi ủi của Non Nước để vớt anh em TQLC rất nhiều. Và chỉ có một vài chiến hạm loại đổ bộ như HQ 404, HQ 801 hay HQ 802 mới có thể vào gần được. C̣n các chiến hạm khác th́ chỉ ở ngoài và anh em TQLC chỉ có cách dùng ghe tàu nhỏ đi ra chứ không có cách ǵ đi ra tàu v́ quá xa.

Sáng 30 tháng 3/75, HQ404 được lệnh vào gần cách bờ 5 hải lư để vớt tướng Trưởng, nhưng không vào thêm. Cuối cùng, tôi nghe Đại tá Trí thuật lại là vị Hạm Trưởng đă cho tàu thả trôi từ từ vào mặc dầu lệnh Sài g̣n là ở cách xa bờ 5 hải lư. Tàu tiến vào gần kề sát bờ, chỉ cách bờ chưa được 1 hải lư. Nên HQ 404 đă vớt được tướng Trưởng và đông đảo anh em TQLC, trong đó có cả Đại tá Trí, từ trong bờ lội ra. Khi anh em TQLC lên tàu xong, Tổng tham mưu ra lệnh cho TQLC về Sàig̣n chỉnh trang, bổ sung. Nhưng trên đường về th́ ngày 1 tháng 4 năm 75, tôi được lệnh TTM do phương tiện truyền tin Hải quân chuyển lại là cho đổ bộ TQLC xuống Cam Ranh để chỉnh trang. Chúng tôi phải xuống ở băi ủi Cam Ranh. Đến ngày 3 tháng 4, TTM chỉ thị cho HQ 802 chở TQLC về Vũng Tàu.

Chúng tôi đóng quân tại Băi Sau, Vũng Tàu, trong căn cứ dưỡng quân. Tôi cho lệnh các vị Lữ đoàn trưởng chỉnh đốn hàng ngũ, và trang bị lại cho các đơn vị. Ngày 6 tháng 4, tôi được lệnh TTM cho biệt phái 2 Lữ đoàn 147 và 258 cho Quân đoàn 3 do Trung tướng Toàn chỉ huy, trách nhiệm hành quân vùng Long Thành và phía Bắc phi trường Biên Ḥa. Lúc đó LĐ/258 do Trung tá Tống chỉ huy. Riêng Lữ đoàn 468 th́ ở tại Vũng Tàu để bổ sung và trang bị.

Sáng 29 tháng 4, tôi liên lạc với các đơn vị TQLC tăng phái cho QĐ3 th́ được biết t́nh h́nh rất nặng nề, các đơn vị VC tấn công mạnh, có xe tăng yểm trợ. Đến 10 giờ ngày 29 tháng 4 tôi mất liên lạc hẳn với 2 Lữ đoàn 147 và 258.

Lê Bá Chư ghi thuật
Lịch Sử Ngàn Người Viết

Tướng Hiếu, Một Thiên Tài Quân Sự?
Các Tướng Lănh QLVNCH
generalhieu