Xác Định Giá Trị Quân Lực VNCH
(bài giảng thuyết)

Trong một cuộc chiến dai dẳng và khó khăn không một ai có thể nh́n rơ khả năng của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Hôm nay tôi tŕnh bày vấn đề này dưới nhiều khía cạnh trong tám mục chính và hai phụ khoản.

Chính Phủ Việt Nam cấp các huy chương tham chiến cho quân nhân Mỹ. Đặc biệt thấy gắn trên băng biểu chương một thẻ kim khí khắc “1960…” Người ta đă không ghi niên điểm cuối cùng bởi lư do dễ hiểu; tuy nhiên ta có thể xem 1960 là khởi điểm v́ đó là mốc đánh dấu sự gia tăng tham chiến của Mỹ cho đến ngày quân đội Mỹ lên cực điểm. Trong giai đoạn này chúng ta có môt cái nh́n tổng thể về thành tích của quân đội Việt Nam từ 1960 cho đến 1975.

Vài năm trước đây tôi đă viết một bài nhan đề “Dũng cảm và xương máu” để phân tích thành quả quân đội Việt Nam trong vụ tấn công tháng Tư 1972. Bài đă được đăng trong báo Parameters của trường Đại Học Quân Sự. Hồi c̣n sinh thời ông Douglas Pike đă b́nh luận trong một ấn bản Indochina Chronology như sau: “Đă có cố gắng chậm chạp nhưng liên tục điều chỉnh và cứu văn danh dự của ngưới quân nhân Việt Nam từng bị nhục mạ bởi bọn phóng viên truyền h́nh thương mại ngu dốt và cánh trí thức thiên tả. Bài của ông Sorley đă xét lại lịch sử và ông ta lập luận vững vàng trong lănh vực này”.1.

Tôi vẫn tri ân lời khuyến khích ấy và ước ǵ Giáo Sư Pike c̣n hiện diện để thấy các tài liệu lịch sử hiện hữu chứng minh sự dũng cảm đưa đến trưởng thành và thành tựu của quân lực Việt Nam Cộng Ḥa. Chỉ v́ nước chúng ta không thực thi cam kết cho Nam Việt trong khi phe cộng sản vẫn tiếp tục và đều đặn gia tăng yểm trợ Bắc Việt nên đồng minh bất hạnh của chúng ta mới bị tràn ngập và thua trận.

Cho đến nay chưa bao giờ có một cố gắng định mức toàn diện sự tiến triển và thành tích của quân đội Việt Nam trong những năm bành trướng. Trong thời giờ hạn hẹp ở đây tôi chỉ mong điều chỉnh phần nào sự khiếm khuyết, bất công và nhiều lúc sai lạc mỗi khi bàn đến QLVNCH tuy đó là một thái độ khôn ngoan cho đến nay.

Chúng ta rất thiếu hiểu biết về cuộc chiến Việt Nam mặc dầu nó đă kết thúc ba mươi năm qua. Là v́ những người phản chiến hoặc ít nhất chống sự tham dự của chính ḿnh đă mô tả mọi khía cạnh qua một lăng kính xấu và nhiều khi đă nói sai sự thật. Ông James Webb vạch mặt giới truyền thông, trí thức và Hollywood là những nhóm đă “có lợi khi làm cho cuộc chiến bị xem là không cần thiết hay không thắng được”.2 Và v́ họ điều khiển dư luận nên họ đưa ra những lập luận sai lầm ngay cả khi chiến tranh kết thúc đă ba mươi năm. Những lập luận thật sai lạc, đi từ thóa mạ người lính Việt trong một quá tŕnh chiến đấu cam khổ cho đến Jane Fonda hạ nhục những tù binh Mỹ là bọn láo khoét hoặc đạo đức giả khi nói rằng họ đă bị tra tấn hay hành hạ trong lúc bị giam cầm. Đă đến lúc ta phải bỏ thái độ tiêu cực, lắm khi mạt sát và cố t́nh dùng chính trị để đổ lỗi cho quân đội Việt Nam trong hầu hết các tranh luận.

Phần 1 - Quân Đội Việt Nam Lúc Đầu

Đây là giai đoạn mà chúng ta chủ động trong khi Việt Nam bị đẩy ra ngoài lề với nhiệm vụ b́nh định (mà đây chính cũng là một khía cạnh của chiến tranh và bộ chỉ huy Mỹ đă quên lăng). Bởi vậy họ không được cấp những vũ khí mới cũng như được trợ chiến cần thiết.

Phần đông chúng ta và ngay cả một số người Mỹ phục vụ tại chỗ đều chỉ trích quân đội Việt Nam trong thời kỳ ấy. Họ đă không lưu ư đến một số yếu tố ảnh hưởng nặng nề lên t́nh trạng đó. Quân cụ Mỹ cung cấp đều là những thứ lỗi thời từ Thế Chiến II, nhất là các súng trường M-1 vừa nặng vừa cồng kềnh với tầm vóc người Việt. Trong khi đó th́ kẻ thù đă được Nga-Tầu trang bị đầy đủ súng AK-47.

Thiếu Tướng James L. Collins đă tŕnh bầy về t́nh h́nh quân đội Việt Nam như sau, “Năm 1964 địch quân đă bắt đầu xử dụng AK-47, một loại súng tân tiến, tự động và rất bén nhậy. Trái lại lực lượng bạn vẫn dùng loại khí cụ phế thải của Thế Chiến II…” Rồi từ năm 1965 khi quân Mỹ lần hồi gia tăng nhập cuộc th́ nhu cầu chiến tranh về phía bạn lại càng bị đẩy lui vào hậu trường”.3

Do đó các đơn vị Việt luôn luôn bị địch quân áp đảo trong thế đánh không cân xứng. Đại Tướng Fred Weyand khi thuyết tŕnh măn nhiệm chỉ huy Đệ Nhị Lộ Quân đă nói rơ, “Sự chậm trễ cung cấp khí giới và quân cụ mới cho Việt Nam, ít nhất ngang với sự yểm trợ của Nga Tầu cho quân địch làm cho quân bạn yếu kém”.4.

Chỉ từ khi Đại Tướng Creighton Abrams nhận chức Tư Lệnh Phó Quân Lực Mỹ vào hồi tháng Năm 1967 người ta mới bắt đầu chú ư đến quân Nam Việt. Tướng Abrams điện ngay cho Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Harold K. Johnson như sau. “Tôi thấy ngay là quân lực Mỹ tại đây cũng như bên chính quốc chỉ nghĩ trước tiên đến hành quân Mỹ và yểm trợ các đơn vị Mỹ. Do đó chương tŕnh cung cấp chiến cụ cho Việt Nam đă ít ỏi mà lại c̣n không được thi hành một cách tích cực và cấp tốc như đối với quân Mỹ. Rơ ràng chúng ta có trách nhiệm lớn với quân bạn. Công việc phải làm ngay và tôi đang bắt tay cấp kỳ vào việc”.5

Ngay khi nhậm chức, Tướng Abrams liền gia tăng lực lượng Việt Nam, nhất là cung cấp các súng M-16. Trong trận tấn công Tết Mậu Thân 1968 ông đă đưa được M-16 vào tay Nhẩy Dù và các đơn vị tiền tiến khác. Tuy nhiên phần đông vẫn bị lép vế đối với công sản. Trung Tướng Chỉ Huy Tiếp Vận Đồng Văn Khuyên nhắc lại rằng, “Trong Vụ Tềt Mậu Thân người ta nghe rơ tiếng sắc bén liên hồi của AK-47 trong Sài G̣n cũng như các thị trấn khác, như là một diễu cợt khôi hài cho các phát súng lẻ tẻ Garant và Carbine trong tay hoảng hốt của quân ta”.6

Tuy vậy quân Việt vẫn đẩy lui địch quân một cách bất ngờ và dũng cảm. Báo Time đă viết: “Nhiều người Mỹ đă ngạc nhiên và Công Sản đă đau đớn sửng sốt thấy quân đội Việt Nam đă tức tốc đương đầu và chiến đấu ngang tàng can đảm khác hẳn dự đoán”.7 Nhưng không thấy ai đề cập đến sự chênh lệch khí giới của đôi bên.

Tháng Hai 1968 Tướng hồi hưu Bruce C. Clarke đi thăm Việt Nam và viết một tờ nhận định được Đại Tướng Early Wheeler chuyển đến tay Tổng Thống Johnson. Tướng Clarke nói “các đơn vị Việt c̣n bị chi phối bởi một chương tŕnh quân viện nghèo nàn, kể cả khí giới cá nhân. Điều này ảnh hưởng lớn đến tinh thần và thành quả của binh sĩ. Quân sỹ cảm nhận rơ khi họ không được trang bị đầy đủ”!

Tổng Thống Johnson liền mời Tướng Clarke đến văn pḥng đàm luận thêm. Và sau đó ít ngày “viên phụ tá Tổng Thống điện thoại báo cho tôi là Tổng Thống Johnson đă ra lệnh gửi ngay 100,000 súng M-16 cho quân VNCH”.8 Tổng Thống đă nhấn mạnh trong bài diễn văn lịch sử ngày 31 tháng Ba 1968, “Chúng ta sẽ nhanh chóng tăng viện cho quân đội Việt Nam để đáp ứng sự gia tăng hỏa lực của địch quân”. 9Thật là kịp thời.

Tướng Clarke trở lại Việt Nam vào tháng Tám 1969 để thấy “lực lượng VNCH đă có 713,000 khẩu M-16 cùng với các khí giới khác và họ đă tiến bộ nhiều kể từ Tết Mậu Thân”.10 Hiện nay họ và các lực lượng diện địa đều đă có súng cá nhân tối tân luôn cả phóng lựu M-79, súng máy M-60 và các đài vô tuyến AN/PRC-25 như quân đội Hoa Kỳ.

Các sư đoàn Mỹ được trang bị tối tân và nhiều hơn phía Việt Nam nên khả năng tác chiến cũng gấp bội. Tùy viên của Tướng Abrams đă nhấn mạnh là Đại Tướng đă nghiên cứu so sánh khả năng tác chiến giữa sư đoàn Mỹ và Việt Nam để thấy chênh lệch hỏa lực 16 lần. Tướng Abrams dùng dữ kiện này để t́m cách tăng viện cho các sư đoàn VNCH.11

Phía VN c̣n bị kém hơn nữa v́ lúc đầu các yểm trợ chiến trường đều ưu tiên cho quân Mỹ, như oanh tạc B-52, xử dụng trực thăng, chiến đấu cơ cận chiến và chuyển quân giữa chiến địa.

Tướng Abrams nói thêm là trong lần tấn công thứ ba vào tháng Tám và Chín 1968 quân VN đă hạ được nhiều địch quân hơn cả tổng số của Đồng Minh. Họ cũng chịu nhiều tổn thất nhân mạng hơn theo số kiểm chứng cũng như theo ước tính với phân số ta và địch tử vong. Ông nói với Tướng Wheeler rằng đó là v́ thật sự quân đội VN không được yểm trợ như quân đội Mỹ cả về phẩm lẫn lượng (trọng pháo, không tập chiến thuật, không pháo và trực thăng vận). 12 Bởi vậy việc chỉ trích quân đội VN trong thời kỳ đầu thiếu khách quan. Thiếu khí giới cần thiết trước một địch quân hùng hậu hơn lại c̣n bị đẩy xuống vai tṛ thứ yếu trong nhiều năm đă không cho họ cơ hội tăng tiến kinh nghiệm chiến đấu.

Về sau ông Robert McNamara từng là Bộ Trưởng Quốc Pḥng và chủ động chiến tranh đă viết một cách hời hợt về phía Việt Nam. Ông đă bị William Colby sửa lưng như sau, “Ông không có quyền nói xấu những người Việt đă đem xương máu chống cộng sản trong khi đại cường Mỹ đă phủi tay chỉ v́ lỗi lầm của McNamara. Mục đích hết sức cao đẹp nhưng Hoa Kỳ đă thua với McNamara và phần lớn là v́ hắn”.13

Phần 2 - Tết Mậu Thân

Chiến trận xẩy ra khắp nơi hồi Tết 1968 là một thử thách lớn cho Quân Đội VNCH. Nhiều người đă sửng sốt chứng kiến một thành tích vượt bực. Khi đi nhận giải Thayer tại trường Westpoint Đại Sứ Ellsworth Bunker lên diễn đàn ca ngợi chiến tích ấy. “Mặc dầu Quân Đội VN ít hơn nhưng họ đă chiến đấu vượt bực. Đại Tướng Abrams đă nói họ chiến đấu ngoài sức tưởng tượng của họ. Đă không có nổi dậy, không có đào ngũ và chính quyền vẫn nguyên vẹn. Trái lại họ phản ứng cấp kỳ, mạnh mẽ và đích đáng; họ chiến đấu với tối đa sức mạnh”.14

Thành tích vượt bực của quân đội VNCH trong trận Tết Mậu Thân 1968 rất cần thiết cho tương lai Việt Nam. Đại Sứ Bunker nói tiếp :”Kết quả là cả một chuỗi diễn tiến làm cho chính phủ Việt Nam vững mạnh, dân chúng tin tưởng hơn khả năng đương đầu với địch và chính quyền thấy sẵn sàng gánh vác vai tṛ chiến đấu hơn”.15.

Ông John Paul Vann cũng đồng ư nói trong năm 1972 rằng “Tết Mậu Thân đă làm cho chính phủ Nam Việt gia tăng kiểm soát lănh thổ, tổng động viên nhân lực để có đủ quân số trám vào khi quân Mỹ rút lui và gia tăng lực lượng địa phương bảo dảm sự hiện diện chính quyền trung ương tại các vùng thôn quê”.16

Lúc Đại Tướng Abrams nhận chức chỉ huy lực lượng Mỹ tại Việt Nam th́ xẩy ra vụ tấn công thứ ba của cộng sản vào mùa Thu 1968. Ông điện cho Đại Tướng Earle Wheeler và Đô Đốc John McCain, “Tôi phải kết luận rằng việc quân Việt Nam đă giết nhiều địch trong ṿng sáu tuần lễ hơn cả quân Đồng Minh chứng tỏ tiến bộ lănh đạo và tinh thần xung kích của họ. Họ phải trả một giá rất cao về tử vong vá tôi cho phần lớn là v́ không được yểm trợ đúng mức. Do đó cần phải nhanh chóng tăng viện khí giới cho họ”.17

Trong cuộc họp thượng đỉnh ở Midway vào tháng Sáu 1969 chưong tŕnh nghị sự chú tâm đến bành trướng và tăng quân viện cho quân lực Việt Nam. Quân số tăng lên 820,000 rồi lại đưa lên đến 1.1 triệu người đă được kư kết. Ngoài ra, theo ghi nhận của Thiếu Tướng Trần Đ́nh Thọ18, c̣n thỏa thuận trang bị thêm M-16, đại liên M-60 và hỏa tiễn LAW. Vậy thấy rằng ngay lúc ấy mà c̣n bàn đến M-16 th́ quân Việt đă phải chiến đấu từ lâu ở thế kém với một địch quân hùng hậu.

Phụ Đính - Vài So Sánh

* Đă có 50 người đào ngũ mỗi ngày dưới sự chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư Lệnh. Đó là trường hợp Đại Tướng George Washington ở Valley Forge trong mùa Đông 1777-1778.19

* Đă phải đưa đại pháo ra đường dẹp phiến loạn chống động viên. Đó là lúc Tổng Thống Abraham Lincoln đă phải quyết định ở Nữu Ước ḥi tháng Tư năm 1865 trong cuôc nội chiến Nam Bắc.

* Trong trận chiến cuối cùng đă chỉ có nửa quân số tham dự v́ tệ nạn đào ngũ. Đó là trường hợp Đại Quân Potomac của Tướng George Meade ở Gettysburg. “Ông ta hy vọng có 160,000 binh sĩ nhưng chỉ vỏn vẹn được 85,000 v́ 75,000 lính đă đào ngũ. Trong cuộc Nội Chiến Mỹ, tỷ lệ đào binh của Liên Quân là 33% trong khi bên kia c̣n hơn nữa ở mức 40 phần trăm”.20

* Trong cuộc tổng xung kích một nửa số binh sĩ trong các sư đoàn đă kháng lệnh. Đó là trường hợp Quân Đội Pháp năm 1917 làm cho ṭa án binh đă phải kết tử h́nh 554 quân nhân trong số ấy 49 người đă bị hành quyết.21

* Đặc biệt có trường hợp một số đơn vị đă tháo chạy; đó là trong Thế Chiến II khi Đại Đội K thuộc Sư Doàn 25 Mỹ đă bỏ chạy toán loạn. Sử gia Geoffrey Perret ghi, “Hiếm thấy một Sư Đoàn Mỹ nào không có t́nh trạng Đại Đội bỏ ngũ như vậy”.22

* Nói đến một đơn vị mà Tư Lệnh Sư Đoàn bị cách chức, bốn phụ tá chính bị loại, hai Tiểu Đoàn Trưởng bị bắt sống và chin Tiểu Đoàn Trưởng khác bị thay thế. Đó là Sư Đoàn Mỹ 36 tại Salermo trong Thế Chiến II.23

* Luôn luôn pháo kích, ám sát, bắt cóc và áp đảo thường dân vô tội là việc làm của công sản trong suốt cuộc chiến.

* Giết hại thường dân vô tội như trong trường hợp Thủy Bồ và Mỹ Lai là thành tích xấu xa của quân Mỹ trong những năm 1967-1968.

Ta có thể kể ra nhiều trường hợp tương tự. Điểm nên nhớ là nếu đem so sánh với các lực lượng đương thời hoặc theo lịch sử ghi nhận th́ QLVNCH đă chiến đấu ngang tàng và xứng đáng trong suốt cuộc chiến. Đó là một điểm son không bao giờ được nhắc tới. Có rất nhiều tài liệu ghi sự dũng cảm và thiện chiến của QLVNCH, tuy nhiên các nhà viết sử không chú ư đến và các phóng viên báo chí th́ lờ đi. Trong Văn Khố Quôc Gia có hàng ngàn huy chưong Hoa Kỳ cấp cho quân sỹ Việt Nam v́ thành tích phục vụ quả cảm.24

Quá tŕnh đẹp đẽ ấy lại càng đáng nể hơn nếu ta nghĩ rằng người lính Việt đă tham chiến từng nhiều thập niên và phần đông đă hy sinh cả quăng đời thanh niên của họ. Một người Mỹ đă nói rất chí t́nh, “Quân nhân Việt không có DEROS (ngày được trở về) như lính Mỹ chỉ phục vụ một năm ở Việt Nam. Họ chiến đấu không ngừng nghỉ năm này qua năm khác với một sức chịu đựng và ḷng nhiệt thành không tưởng tượng được. Ngay sau khi cộng sản thắng trận phần đông lại c̣n chịu giam cầm hàng chục năm trong các trại lao cải nghiệt ngă”. 25

Phần 3 - Địa Phương Quân

Sau vụ Tết Mậu Thân 1968 Bộ Tư Lệnh Mỹ thay đổi. Đại Tướng Creighton Abrams lên thay Đại Tướng Westmoreland và đổi quan niệm về cuộc chiến và phương pháp hành xử. Tướng Abrams nhấn mạnh “chiến tranh toàn diện” gồm cả hành quân, b́nh định và gia tăng khả năng QLVNCH theo một quy tŕnh cấp bách ngang với chiến trận.

Chiến thuật cũng thay đổi từ quan niệm “truy và diệt” qua “b́nh định và giữ đất”. Có nghĩa là khi địch bị đẩy ra khỏi vùng có dân th́ quân đội phải đóng lại chớ không rút đi cho địch trở lại. Do đó Địa Phương Quân được phát triển tối đa để phụ trách an ninh và b́nh định lănh thổ.

Trung Tướng Nguyễn Duy Hinh cho sự phát triển và nâng cao các lực lượng địa phương là việc làm quan trọng nhất của Mỹ.26 Đại Tướng Ngô Quang Trưởng nhận định rằng kết quả b́nh định xă ấp, gia tăng số dân sống dưới chính quyền và an toàn giao thông là công của lực lượng địa phưong quân và nghĩa quân.27

Tháng Năm 1967 khi Đại Tướng Abrams đến Việt Nam th́ quân lực VN gồm có Lục Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân. Ngoài ra c̣n có những lực lượng diện địa bao gồm Địa Phương Quân và Nghĩa Quân phụ trách an ninh lănh thổ. Tỉnh Trưởng chỉ huy Địa Phương Quân c̣n Nghĩa Quân đặt dưới quyền Quận Trưởng. Các lực lượng này trú đóng tại địa phưong của họ và thực hiện mục tiêu “càn quét và giữ đất”. Vào năm 1970 đă có 550,000 quân số, nghĩa là một nửa QLVNCH.

Một trùng hợp, đêm hôm trước Bing West và một nhân vật nữa đă lên kênh PBS “Giờ tin tức với Jim Lehrer” để thảo luận về t́nh h́nh Iraq. Một người đă nói đến quan niệm “càn quét và giữ vững” của Condoleza Rice. Nếu ta t́m nguồn gốc quan niệm này th́ hẳn phải kể Lực Lượng Diện Địa Nam Việt, Đại Tướng Abrams, Đại Tướng Harold K. Johnson và bản nghiên cứu PROVN (chương tŕnh b́nh định và phát triển Nam Viêt) của Đại Tá Jasper Wilson.

Ngay từ tháng Mười 1968 ông William Colby làm phụ tá Bính Định cho Tướng Abrams đă giải thích tầm quan trọng của các lực lượng ấy. “Để bảo vệ an ninh lănh thổ chúng ta chú trọng đến tăng tiến Địa Phưong và Nghĩa Quân, lên ngót một nửa toàn thể quân số. Chúng ta đă bắt đầu ngay từ tháng Mười vừa qua. Trong một buổi thuyết tŕnh Đại Tướng Abrams đă nhấn mạnh ba mươi điều phải làm trong đó có việc cử các toán nhỏ cố vấn quân sự đến các Đại Đội Địa Phương Quân và các Trung Đội Nghĩa Quân. Ta đă có 250 toán năm người rải rác khắp mọi nơi”.

Ba tháng sau ông Colby đă thấy sự tăng tiến nhanh chóng huấn luyện và vũ khí cho các đơn vị ĐPQ cũng như NQ. “Dă có 91,000 binh sỹ nhiều hơn năm ngoái. Khoảng 100,000 người đă được trang bị súng M-16 và 350 toán cố vấn đă sống và làm việc với các đơn vị ĐPQ và NQ”. Ngay khi lănh chức Tư Lệnh Đại Tướng Abrams đă thẳng thừng chuyển các súng mới cho họ. Ông nói trong bài thuyết tŕnh tháng Tám 1968, “Trong một năm ĐPQ và NQ được ưu tiên hàng đầu và nhận súng M-16 trước cả Lục Quân. Cũng như mọi việc, tôi đă bỏ vào quỹ-tiết-kiệm-lính với lăi xuất 10 phân. Trời Đất ơi, chúng ta đă đầu tư vào đây và đó là việc phải làm, ưu tiên tối đa trên tất cả mọi thứ”!

ĐPQ và NQ gia tăng khả năng và thành tích của họ và phải được ghi công đầu. Trong buổi thuyết tŕnh WIEU (dự đoán t́nh báo hàng tuần) cho quan khách Tướng Abrams nói, “Điều tôi quan tâm nhất là vai tṛ của ĐPQ và NQ trong chiến cuộc luôn bị quên lăng.

Người ta chỉ thường nói đến QLVNCH trong khi đă lâu nay ĐPQ và NQ gánh chịu nhiều tổn thất và đă giáng cho quân địch nhiều đ̣n chí tử. Tôi nói thẳng, nếu ta muốn nói đến an ninh cho dân th́ đây mới là phần việc lớn”!

Cùng một lúc, ông nói rơ ràng về thành tích của các đơn vị này. “Tôi không biết có nên trang bị thêm các đại đội Lục Quân không. Nếu có thêm nhân số th́ tôi nghĩ đem đầu tư vào các lực lượng diện địa này có lợi hơn”.

Cuối năm 1969, khi nh́n biểu đồ t́nh h́nh trong ba tháng vừa qua ghi rơ ai đă đem lại nhiều thành quả nhất về khí giới, tử vong, Tướng Abrams đă nói: “Thật rơ ràng và đúng. Số địch bị giết, khí giới thu được, hầm bí mật phát hiện, vv, th́ QĐVNCH vẫn giữ nguyên tỷ lệ 27/28% trong khi tỷ lệ của Đồng Minh sút giảm. Sự chênh lệch là do các lực lượng địa phương và đă xẩy ra từ tháng Tám vừa qua”. Một người trong cừ tọa nói lớn, “Đó là tính chất của cuộc chiến”!.

Tướng Abrams trả lời ngay, “Đúng lắm! Tôi luôn luôn hỏi lợi nhuận thu được từ 100,000 súng M-16 như thế nào? Như vậy hả? Vâng ta đă bắt đầu thấy kết quả”! Ông Bill Colby cũng nhận xét rằng trong tháng Bẩy 1970 lực lượng địa phương cũng bảo vệ được súng của ḿnh. Tỷ lệ khí giới mất đối chiếu với vũ khí thu được là một trên ba, khác hẳn t́nh trạng năm năm trước đây.

Tướng Abrams nói thêm: “Các Lực Lượng Địa Phưong, các con sóc ấy tiến tới rất vững vàng. Một t́nh trạng đă được duy tŕ lâu nay là ĐPQ và NQ đă gánh chịu phần lớn trách nhiệm chiến tranh”.28

Các sỹ quan cao cấp Việt Nam cũng nh́n nhận như Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, “Các ĐPQ và NQ đă lần hồi gỡ bỏ mặc cảm của một phụ lực quân để trở thành các binh sỹ chính quy và là một bộ phận chính của bộ máy chiến tranh”! ĐPQ tăng tiến về phẩm cũng như lượng đă được các nhân vật b́nh luận khắt khe như Tướng Julian Ewell khen tặng, “Họ là mũi nhọn trên chiến trường”!

Phần 4 - Những Vấn Đề Nhức Nhối

Có ba vấn đề luôn luôn khó khăn cho QLVNCH trong suốt chiến tranh là, thiếu cán bộ lănh đạo giỏi, t́nh trạng tham nhũng lan rộng và đào ngũ. Có lănh đạo với đầy đủ khả năng chỉ huy là một vấn nạn cho QLVNCH trong suốt cuôc chiến. Với sự gia tăng quân số đến 1.1 triệu người t́nh trạng lại càng trầm trọng hơn. Sự thất thoát cấp chỉ huy của các đon vị nhỏ lại càng làm cho vấn đề tệ hại khi quân số gia tăng.

Công việc huấn luyện và các kế sách tuyển mộ các chỉ huy mới rồi đôn họ lên theo chiến tích thật là nhọc nhằn và khó khăn. Sau chiến dịch Lam Son 719, Đại Tướng Abrams tham dự một cuộc duyệt binh tại Huế đă nói, “Thật là một việc đáng ghi. Họ đôn quân, HSQ được thăng lên, HSQ lên thành Chuẩn Úy, Chuẩn Úy lên Thiếu Úy. Tổng Thống Thiệu tuyên bố rằng đó là việc nhỏ với 5,000 thăng cấp, mà thăng cấp mặt trận”.

Tướng Abrams rất thích: “Đó là chuyện đă xẩy ra ở Lào. Không có cách ǵ tốt hơn trong quân đội là đi vào hàng ngũ lựa chọn những phần tử chiến tích thích đáng mà đôn lên”.29 (Cũng như vậy đối với các viên chức tại Trung Tâm Huấn Luyện Vũng Tàu hầu giúp họ tăng tiến khả năng quản trị và lănh đạo trong công việc).

Vài vị chỉ huy Việt Nam đă không ngớt chỉ trích khả năng lănh đạo của ḿnh. Đại Tướng Cao Văn Viên đă viết trong cuốn sách của ông như sau, “Trong thời gian tôi phục vụ ở cương vị Tộng Tham Mưu Trưởng tôi đă chứng kiến sự thành công cũng như thất bại của khả năng lănh đạo của chúng ta. Mặc dầu chúng ta đă cố gắng tối đa nhưng vẫn không đủ trong hoàn cảnh khó khăn của đất nước”.30

Sự đào ngũ trong các sư đoàn là một căn bệnh trầm trọng của QLVNCH. Tuy nhiên không phải đào ngũ theo phe đich nhưng phần lớn là để tránh ra trận hay để về nhà. Đó là một việc khác hẳn phía địch khi phần đông những đào binh quay về hàng ngũ quân ta. Trái lại đào binh ta thường trở lại ngũ tại địa phương. Theo Anthony Joes đó là sự hoán chuyển từ quân đội chính quy về địa phưong quân mà tỷ lệ đào ngũ gần như không có mặc dầu số tử vong cao hơn quân chính quy.31

Tham nhũng là một nhược điểm nữa không bao giờ gột tẩy được mặc dầu ảnh hưởng lên chiến cuộc không mấy quan trọng như ngưới ta thường kêu la. Tuy nhiên Đại Tướng Cao Văn Viên đă kết luận như sau. “tham nhũng không phải yếu tố đưa đến sự xụp đổ của chế độ nhưng chắc chắn nó gây ảnh hưởng tệ hại đến tŕnh độ binh nghiệp và như vậy làm suy nhược khả năng chiến đấu”.32

Ông Tom Polgar của CIA nhận định xác đáng rằng tham nhũng không thể lật đổ một quốc gia cũng như trường hợp Phi Luật Tân, Nam Hàn hay Thái Lan. “Nước nào mà không trả công tương xứng cho viên chức đều có tham nhũng, đó là một quy luật. Tuy nhiên tham nhũng ḅn rút hết tiêm lực quốc gia khi có ngoại xâm”. 33

Đại Tá William LeGro đă ở lại đến những ngày cuối cùng với DAO (Cơ Quan Tùy Viên Quốc Pḥng) đồng ư. Ông nói: “Tham nhũng không làm cho sụp đổ. Sự giảm thiểu viện trợ Hoa Kỳ đến con số không là đáp số”. Ông ta nói thêm: “Chúng ta đă đối xử một cách xấu xa bỉ ổi với bạn Việt Nam của chúng ta”.34

Phụ Đính - Nguyễn Văn Thiệu

Phần này bàn về cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Tư Lệnh Tối Cao QLVNCH. Tổng Thống Thiệu lănh đạo quốc gia trong một thời kỳ ngặt nghèo nhất. Trong khi chiến đấu chống ngoại xâm và nội loạn được Nga Tầu yểm trợ tối đa, ông đă đặt các cơ cấu dân cử từ trung ương cho đến hạ tầng xă ấp. Ông đă gia tăng quân đội và với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, ông đă tăng tiến phẩm chất quân lực để thay thế quân Mỹ. Ông trực tiếp lănh đạo chương tŕnh b́nh định nông thôn và phá vỡ hệ thống khủng bố đe dọa dân quê. Ông thực thi một chính sách cải cách ruộng đất đáng khen, phân phát cho 400,000 nông dân 2 triệu rưỡi mẫu ruộng, và tổ chức bốn triệu dân thành một lực lượng dân vệ với 600,000 khẩu súng.

Trong sáu năm phục vụ Đại Sứ Ellsworth Bunker thường xuyên tiếp xúc với Tổng Thống Thiệu và đă nhận xét xác đáng về con người cùng khả năng của ông ấy. Đại Sứ Bunker nói: “Ông ta đối phó với t́nh h́nh một cách khôn ngoan và khéo léo. Ông ta là một con người trí thức đầy khả năng. Thoạt đầu ông đă cai trị theo hiến pháp chớ không theo một lũ Tướng Tá chỉ muốn ông hành động theo ư họ. Càng ngày ông càng hành xử như một chính trị gia (đây là một lời khen của Bunker), đi về vùng quê, thanh tra b́nh định, chuyện tṛ với dân xem họ muốn ǵ”. Ông Bunker khen ngợi ông Thiệu và có khi coi ông ta như một đối thủ chính trị có bản lănh. Bunker nói: ‘Tôi nghĩ Thiệu là một người khôn ngoan và chín chắn”.35

Ông Thiệu cũng hết sức thực tế khi phàn nàn với Bunker rằng, “Thật là khổ cho chúng tôi đă không có mấy vị Tướng đủ khả năng chỉ huy hơn một sư đoàn”! Khi nói vậy ông ám chỉ cả chính ông một cách khiêm nhượng và rất đúng.36

V́ quân đội cung cấp phần lớn khả năng hành chính cũng như chính trị nên ông Thiệu bị giới hạn một cách đau thương trong việc thay thế các phần tử thiếu khả năng hay bất xứng. Lại nữa ông ta cũng cần phải lưu giữ những người đáng tin cậy mặc dầu yếu kém. Trong thời đầu nhiệm kỳ ông đă cắt nghĩa cho một nhân viên Mỹ cao cấp như sau: “Hoàn toàn thanh lọc cấp chỉ huy trong quân đội là một việc bất khả thi. Mỗi sự thay thế một vị tư lệnh đều phải sắp đặt và thi hành hết sức cẩn trọng. Không thể kéo quân đội ra khỏi chính trị trong một sớm một chiều. Tổ chức quân đội vẫn là thế đứng duy nhất của tôi và hơn nữa là một cơ chế vững vàng nhất để bảo đảm thống nhất quốc gia”.37

Đại Sứ Bunker cũng như Đại Tướng Abrams hiểu rơ vấn đề nên tỏ ra rất kiên tâm và thông cảm.

Nhưng họ cũng đưa ra những đề nghị chính xác liên quan đến các cấp chỉ huy cao thiếu khả năng. Thường th́ được nghe theo tuy phải mất thời giờ trong khi sắp xếp chính trị. Trong một thời gian đă có những thay đổi lớn trong cấp lănh đạo quân cũng như chính, có khi do áp lực khủng hoảng chiến trường. Tuy nhiên chưa bao giờ có việc thanh trừng rộng răi là v́ không những để tránh xáo trộn mà lại c̣n không có đủ người xứng đáng thay thế. Đào tạo nhiều cấp chỉ huy tốn quá nhiều th́ giờ.

Giới cao cấp Hoa Kỳ nhận thấy sự quan trọng của Thiệu trong việc b́nh dịnh. Tướng Abrams bảo rằng ông Thiệu hiểu nhiều hơn bất cứ ai về công tác b́nh định và William Colby gọi ông là “con người b́nh định số một”. Lịch sử Bộ Tổng Tham Mưu Quân Đội Mỹ đă nhận định “Thiệu là một yếu tố quan trọng. Ông ta nhận định rơ ràng sự quan trọng của chương tŕnh b́nh định và thiết lập các cơ cấu hành chính cấp địa phương”.38

Nhiều dịp Tổng Thống Thiệu mời Đại Sứ Bunker cùng đi kinh lư thôn xă. Ông Bunker đă nghe ông Thiệu nhấn mạnh sự thiết lập cơ chế hành chính địa phương, tổ chức bầu cử xă ấp, huấn luyện các viên chức địa phương và cải cách ruộng đất. Tại Trung Tâm huấn luyện Vũng Tầu 1,400 xă trưởng nghĩa là ba phần tư làng xă Nam Việt đă theo học trong chin tháng đầu năm 1969. Tổng Thống Thiệu đi thăm mọi lớp và cho các học viên khi trở về làng có thể hănh diện nói với dân là “Tổng Thống đă khuyên nhủ tôi thế này thế nọ”. Cuối năm 1969 t́nh h́nh đă tiến bộ rơ rệt khiến cho ông John Paul Vann, một nhân vật hàng đầu trong chương tŕnh b́nh định đă nói trước cử tọa tại Princeton rằng, “Hoa Kỳ đă thắng trên trận địa và nay đang thắng chính trị với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu”.39

Hồi tháng Tư 1968, trái với ư kiến của hầu hết các cố vấn, Tổng Thống Thiệu đă thiết lập các lực lượng Nhân Dân Tự Vệ. Ông Thiệu lập luận rằng, “chính quyền căn bản trên dân. Bởi vậy chính quyền không có nền móng nếu không dám đưa khí giới cho dân”. Do đó khoảng bốn triệu người, trong số những người quá trẻ hoặc quá già để nhập ngũ, đều xung vào Dân Vệ và được trang bị 600,000 súng cá nhân. Lập luận xác đáng là chính phủ Thiệu được dân ủng hộ, Dân Vệ đă dùng súng chống lại sự đô hộ cộng sản chớ không phải chống chính phủ.

Về sau qua bao nhiêu tài liệu người ta thấy rơ rằng cộng sản đă nhiều lần kêu gọi tổng nổi dậy nhưng không bao giờ dân đă nổi dậy theo chúng. Theo con mắt khách quan của nhiều quan sát viên th́ không lạ ǵ mà sau bao nhiêu năm ám sát, bắt cóc, khủng bố, ức chế và pháo kích bừa băi các khu dân cư trong toàn Nam Việt mà cộng sản đă không chinh phục được ḷng dân.

Tháng Mười năm 1971 trong t́nh h́nh chiến tranh dữ dội Tổng Thống Thiệu đă thắng cử không có đối thủ. Nhiều người đă chỉ trích ông cho rằng sự thắng cử của ông không xứng đáng v́ không có đối lập.. Tuy nhiên mặc dầu địch đe dọa và kêu gọi tẩy chay đầu phiếu đă có 87.7 phần trăm cử tri hợp lệ đến pḥng phiếu và 91.5 phần trăm đà bỏ phiếu cho ông Thiệu.40 Đó là một tỷ lệ cao nhất của Việt Nam. Nếu không hay ho v́ không có đối thủ hay dân không bằng ḷng sự lănh đạo của ông th́ tại sao họ lại đi bỏ phiếu đông như vậy mặc dầu có thể nguy hiểm đến tính mạng? Người ta thấy rằng, mặc dầu có nhiều chỉ trích, phần đông dân chúng muốn ông tiếp tục lănh đạo xứ sở.

Ông John Paul Vann tuyên bố hồi tháng Giêng 1972 rằng “yếu tố căn bản không chối căi được là khoảng 95 phần trăm dân chúng muốn có chính phủ Việt Nam hiện hữu hơn là chính phủ cộng sản hay một chính phủ do phía bên kia đưa ra”.41

Thật là buồn khi nhiều người Việt đă chỉ trích ông Thiệu. Tôi đă nói chuyện với nhiều bạn Việt hiện sống ở đây. Mới đây một người bạn học thức và thông minh đă nói với tôi một cách phũ phàng rằng Tổng Thống Thiệu đă nói dối. Tôi hỏi lại như thế nào th́ được trả lời ngay: “Thiệu biết rơ là người Mỹ sẽ bỏ rơi mà không nói cho chúng tôi biết”.

Tôi cho đó là một lời buộc tội quá nặng và cần bàn lại. Đại Sứ Bunker nhớ đă tự tay đưa cho Tổng Thống Thiệu ba bức thư cam kết của Tổng Thống Nixon giúp Việt Nam nếu cộng sản vi phạm trắng trợn hiệp định. Nhưng ông Bunker nói, “Quốc Hội bó tay chúng ta và kết quả là nước Mỹ đă bội phản”.42 Ông Bunker giải thích rơ ràng, “tôi không thể h́nh dung được làm sao Tổng Thống Thiệu có thể biết trước cung cách và hành động điếm nhục ấy của Hoa Kỳ”!

Ông Thiệu đă từ chức vài ngày trước khi Sài G̣n thất thủ hầu mong có dàn xếp ổn thỏa. Trong bài giă từ ông đă làm đúng khi giận dữ chua chắt về một cuộc tranh đấu cam go trong nhiều năm. Nó đă cho thấy rằng ông cũng đă sửng sốt như bất cứ ai khi người đồng minh một thời đă quay lưng lại một người bạn trong lúc hoạn nạn (và phản bội cả những người Mỹ đă hy sinh tại Việt Nam).

Theo tôi th́ Nguyễn Văn Thiệu đă thi hành nhiệm vụ một cách can dảm trong nhiều năm chiến tranh để xứng đáng được kính nể và biết ơn của những ai vẫn muốn thấy miền Nam Việt Nam tốt đẹp (c̣n có nể trọng hay không là tùy trường hợp).

Phần 5 - Lam Sơn 719

Rơ ràng người ta đă cho rằng chiến dịch Lam Son 719 vào Hạ Lào là một thảm bại cho Nam Việt. Tuy nhiên sự thật khác hẳn, v́ hiện nay với băng ghi Abrams và các nguồn tin khác đă cho biết là quân Bắc Việt thiệt hại nặng khiến cho chúng mất trớn tổng tấn công miền Nam để ta có th́ giờ kiện toàn Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh.

Trong tài liệu WIEU (cập nhật hằng tuần t́nh báo) ngày 30 tháng Giêng ta thấy địch quân biết đôi chút về hành quân vượt biên giới của ta. Tám ngày trước khi cuộc hành quân khởi diễn, COMINT (t́nh báo vô tuyến) nhận thấy địch quan tâm đến các hoạt động phía ta tại vùng 1 và những khu vực lân cận Hạ Lào. Đă phát hiện các truyền tin của địch từ ngày 24 tháng Giêng để ư đến “quân ta có thể đánh qua biên giới phá trục tiếp vận của chúng”. Cũng có tin tức là địch hết sức lo cuộc đổ bộ vào Bắc Việt và sư xâm nhập Lào từ những chiến hạm ngoài khơi, vv.43

Ngày 8 tháng Hai các đơn vị QLVNCH vượt biên vào Lào trên trục lộ 9 với thiết giáp, nhẩy dù, biệt động, thủy quân lục chiến và lục quân. Tổng số 10,000 quân đă nhập đất Lào vào cuối tuần. Cùng lúc, 10,600 quân tiến vào Cao Mên.44

Khi Đô Đốc McCain Tư Lệnh Thái B́nh Dương (CINPAC) dự thuyết tŕnh ngày 19 tháng Hai th́ được biết các đụng độ khá cao ở cấp Đại Đội và nhiều trận lẻ tẻ đă diễn ra trên khắp chiến trường. MACV theo rơi sáu tiểu đoàn địch đương đầu QĐVN tại Lào. Quân Đội Mỹ không được phép tham dự nhưng sư yểm trợ của không lực Mỹ đă mất 21 trực thăng trong 7,000 phi xuất (tổng số thất thoát trong chiến dịch là 108 nghĩa là 21 cho 100,000 phi xuất) 45.

Trung Tướng William E. Potts của MCV J-2 đă tóm lược cho Đô Đốc McCain như sau: “Điểm đáng ghi nhận là trong chiến dịch Lam Son, địch quân đă đua ra tất cả những ǵ chúng hiện có hoặc đang gửi đến ngoại trừ Sư Đoàn 325 và Tiểu Đoàn 9 thuộc Sư Đoàn 304. Vậy nếu chúng bị thiệt hại th́ chúng sẽ tụt hậu trong một thời gian khá lâu”. Tướng Abrams nói thêm, “Lẽ cố nhiên chúng ta mong đón tất cả bọn chúng với toàn thể sức mạnh của chúng ta”.46

Dầu vậy, đến ngày 20 tháng Hai, nghĩa là gần hai tuần sau chỉ có sáu Trung Đoàn địch hiện diện trong chiến dịch Lam Sơn. Thuyết tŕnh viên nói trong buổi họp chỉ huy WIEU (dự đoán t́nh báo hàng tuần) ngày hôm ấy là, “thật vậy sự phản công mạnh mẽ của địch đă xẩy ra đêm 18 tháng Hai. Phía ta có một lực lượng tương đương với 18 tiểu đoàn vẩn tiếp tục t́m địch thanh toán”.47

Đại Tướng Abrams nhấn mạnh với ban Tham Mưu và các cấp chỉ huy của ông là phải cho quân Việt Nam mọi phương tiện cần thiết để họ chiến thắng trong trận hệ trọng này. “Đây là một dịp dể giáng cho địch một vố ta chưa bao giờ làm được”. Ông nhấn mạnh hết sức ư nghĩa khi Hoa Thịnh Đốn đưa ra một vài chỉ trích: “Ai cũng biết cái rủi ro từ lúc đầu nhưng ta thấy là đă đến lúc phải chấp nhận rủi ro”. Khi qua Hoa Thịnh Đốn Đại Sứ Bunker đă tŕnh bầy tất cả các khía cạnh tương quan.48

Cho đến ngày 24 tháng Hai MACV vẫn theo dơi sáu Trung đoàn địch (tăng lên thành bẩy ba ngày sau) trong chiến dịch Hạ Lào. Trong tường tŕnh cho Tướng Abrams, thuyết tŕnh viên đă nói rằng bốn tiểu đoàn trong số 18 cung cấp cho Trung Đoàn địch h́nh như đă bị tê liệt. Cũng trong ngày ấy số tử thương của địch quân được ước lượng là 2,191 người trong khi quân bạn mất 276 mạng.49

Đến dây th́ một khó khăn lớn xẩy ra là thiếu hụt trực thăng. Mà Quốc Lộ 9, con đường chính Đông Tây có nhiều đoạn bị đào sâu lên đến cả sáu thước khiến cho việc xử dụng con lộ này hầu như bị gián đoạn. Nhất là loại bồn chở xăng không thể đi qua được. Bởi vậy phải tiếp tế bằng phi cơ, ảnh hưởng nặng nề lên đội ngũ trực thăng. Sự tính toán điều hành và sửa chữa cấp bách đă xoay lại t́nh thế. Cho nên khi Tướng Julian Ewell, một nhân vật không mấy thiện cảm với chiến dịch, đi thanh tra ông đă nói, “tỷ lệ sẵn sàng hành quân (operational readiness) ngày Chủ Nhật khi tôi đến thăm là 79%, một con số vượt bực”.50

Cùng lúc địch tung ra một trận tấn công lớn với thiếp giáp và tràn ngập cứ điểm 31 là nơi trú quân của Tiểu Đoàn Bộ Đệ Nhất Sư Đoàn VNCH. Người ta đă ghi nhận địch có 350 quân bị giết và 15 thiết giáp bị phá hủy đối lại 13 quân bạn chết, 39 bị thương và ba thiết vận xa bị hư hại.51

Người ta nhận thấy ngày mồng 1 tháng Ba một Trung Đoàn địch nữa đă tham chiến nâng tổng số lên tám đơn vị (trong 24 tiểu đoàn có sáu đă bị tê liệt). Đại Tướng Abrams nói, “thật là một trận khủng khiếp”. Trong buổi thuyết tŕnh cập nhật ngày 4 tháng Ba thuyết tŕnh viên đă nhắc lại rằng ngày 11 tháng Hai đă thấy dấu hiệu địch chuyển sang thế tấn công. Tuy nhiên sự việc chỉ xẩy ra ngày 18. Ta có thể nói là địch đă mất quân số vào khoảng bẩy tiểu đoàn chủ động, c̣n số thiết giáp của họ vào khoảng 100 chiếc lúc đầu th́ nay chỉ c̣n từ 65 đén 70 chiếc mà thôi.52 Ở thời điểm này ta ước lượng địch quân có tại hiện trường 15,000 chiến binh cộng với từ 8,000 đến 10,000 quân hậu cần trong khi bên ta huy động mười sáu tiểu đoàn chủ động.53

Khi một tù binh thuộc Trung Đoàn 24-B khai rơ sự tộn thất nặng nề trên đường 92 về phía Bắc Bản Đông th́ pḥng J-2 MACV giảm hiệu lực của địch đi hai Tiểu Đoàn, nghĩa là trong số 30 Tiểu Đoàn địch thuộc 10 Trung Đoàn tung ra trên chiến trường đương đầu với quân VN th́ chúng đă mất hẳn 10 Tiểu Đoàn. Tướng Abrams nói, “Tôi càng tin chắc rằng đây có thể là trận quyết định chiến cuộc”. Tướng Potts nói thêm, “Họ mất một nửa chiến xa, một nửa đại bác pḥng không và 10 trên 30 Tiểu Đoàn”.54

Trong một buổi cập nhật t́nh báo hàng tuần (WIEU) ngày 20 tháng Ba Đại Sứ Bunker nói Chiến Dịch Lam Sơn đang chấm dứt là một cuộc hành quân rất thích ứng. Tướng Abrams bèn trả lời: “Thật là một trận đánh cam go. Tuy nhiên ảnh hưởng lên phần cuối năm nay hết sức to lớn. Chúng đă tung nhiều lực vào Lam Son và đă bị thua đậm”.55

Ngày 23 tháng Ba khi địch quân tung vào thêm Trung Đoàn thứ mười ba, thuyết tŕnh viên tŕnh bầy rằng chín trong số mười một Trung Đoàn đă bị thiệt hại nặng nghĩa là họ chỉ c̣n khoảng 17 Tiểu Đoàn chủ động trong số 33 đem ra. Ngoài ra họ lại c̣n mất khoảng 3,500 đơn vị hậu cần.56 Khi các yếu tố dược tŕnh bầy trong kỳ WIEU th́ Tướng Potts nói thêm, “Không phải các Tiểu Đoàn ấy bị sút kém nhưng chúng đă bị hoàn toàn tiêu diệt”.57

Quân đội VNCH cũng chịu nhiều tổn thất, 1,416 bị giết và 714 mất tích.58 Nhiều khí cụ đă bị phá hủy hay bỏ lại khi vội vă rút lui. Khi xét lại kết quả, Đại Tướng Sutherland nhận định như sau: “Khuyết điểm từ lâu là Bộ Tham Mưu VN không có đủ khả năng thiết kế và phối hợp Không Lực cũng như phối hợp yểm trợ không địa. Tuy nhiên họ dă học hỏi nhiều trong chiến dịch này”.59

Quần chúng hết sức ủng hộ trận Lam Sơn. Khi Đức Ông Thompson tới viếng thăm hồi cuối tháng Ba người ta đă tŕnh bầy với ông kết quả cuộc thăm ḍ dư luận trong 36 tỉnh. Kết quả cho thấy 92% đồng ư với các chiến dịch như Lam Sơn 719, 3% chống đối và phần c̣n lại không có ư kiến. Kết quả cho thấy một phân xuất rất cao so với bất cứ lần thăm ḍ về bất cứ một vấn đề ǵ trước đây.60

QLVNCH đă chiến đấu trong 42 ngày liền tại Lào. MACV tŕnh bầy khiêm tốn cho Bộ Trưởng Lục Quân Stanley Resor là Chiến Dịch Hạ Lào đă “thử thách QLVNCH trước một địch quân quyết tâm trong trận địa xuyên biên giới. Chắc chắn là đă phá được đường tiếp vận của họ”.61 Ở Hoa Kỳ người ta kêu đó là một thảm bại của quân Việt. Lẽ cố nhiên bộ máy tuyên truyền Hà Nội vội vă túm lấy cơ hội.

Tuy nhiên Tướng Abrams nhận định là chiến dịch nhất định có lợi cho QLVNCH. “Từ trước ta cứ tưởng rằng Bắc Việt có thể chiến thắng họ. Chiến tranh chưa chấm dứt nhưng Bắc Việt bắt đầu thấy là họ phải đương đầu với một công việc khó hơn nhiều”.62

Phần 6 -Một Cuộc Chiến Thắng Lợi

Phương pháp áp dụng trong giai đoạn Abrams đă có kết quả tốt mặc dầu nhiều người không tin như vậy. Quân Mỹ đă lần hồi rút nên quân Việt đạt nhiều thành quả hơn. V́ chiếm được nhiều đất hơn nên đă thấy nhiều lính địch quy thuận hơn. Trong năm 1969 có 47,000 hàng binh cọng thêm 37,000 hồi chánh năm 1970.63 Mỗi Sư Đoàn Bắc Quân có 8,689 quân số.64 Như vậy th́ số đào ngũ của họ trong hai năm bằng chín Sư Đoàn. Đă đến chiến thắng mặc dầu vẫn phải đánh nhau là v́ Nam Việt đă đủ khả năng giữ vững chủ quyền và tự lực hành động với lời hứa yểm trợ của Hoa Kỳ như họ vẫn làm cho đồng minh tại Tây Đức và Nam Hàn.

Ngay từ cuối năm 1969 John Paul Vann, một nhân vật chính của chương tŕnh b́nh định đă viết cho cựu Đại Sứ Henri Cabot Lodge như sau: “Tôi không cần thăm Hoa Thịnh Đốn hay Ba Lê như trước để t́m cách thay đổi chính sách Việt Nam. Tôi hài ḷng với chính sách hiện hữu. Tôi nghĩ rằng chúng ta đă đạt mục tiêu bỏ được số Mỹ tử vong sau 1972 và chiến phí (cuộc chiến sẽ c̣n kéo giài măi) sẽ giảm hẳn v́ được người Việt lo liệu với sự trợ giúp tiếp vận và tài chính của chúng ta”.65

Ngoài trách nhiệm chiến đấu thay vào quân Mỹ rút đi, Nam Việt c̣n phải đương đầu với nhiều thay đổi chính sách. Đại Tướng Abrams nói rơ là họ phải vượt qua các trở ngại mỗi ngày một khó hơn. Ông nhắc lại, “Chúng ta đă bắt đầu từ năm 1968,. Mục tiêu của chúng ta là đến 1974 họ phải quất nặng bọn VC để sau nữa sẽ đập cả bọn Việt Cộng lẫn quân Bắc Cộng tại miền Nam. Rồi họ phải nén chặt chúng lại, nén ba bốn lần. Như vậy chúng ta bắt đầu; trong một thời gian dài – ông ra dấu bằng tay – và phải kết thúc trong thời gian ngắn hơn nhiều”.

“Và nếu cần truy cản Việt Cộng, Bắc Cộng hay giúp Cao Mên chẳng hạn th́ chúng ta cũng giúp tay vào. Tuy nhiên chúng ta cần hết sức cẩn thận không có sẽ bị trật đường rầy. Ta tránh làm như vậy v́ nó sẽ làm cho ta điên lên”.66 Sự thay đổi đường lối quan trọng nhất là loại bỏ dự tính giữ lại một lực lượng Mỹ lâu dài tại chỗ như thể ở Tây Âu hay Nam Hàn.

Ông Thomas J. Barnes trở lại Việt Nam sau ba năm vắng mặt để làm việc trong chương tŕnh b́nh định vào mùa Thu 1971. Ông nói với Tướng Fred Weyand là “tôi đă ngạc nhiên với ba tiến bộ chính, sự phồn thịnh của nông thôn, Địa Phương và Nghĩa Quân giữ vững vị trí và phát triển sự tự trị chính trị kinh tế làng xă. Ta đă giúp làng xă lấy lại tính cách độc lập và tự lực theo tập tục Việt Nam. Đó là việc tham gia quan trọng nhất của chúng ta trong công việc b́nh định”.67

Ngay từ giữa tháng Ba 1971 quân đội Việt Nam đă gánh vác chiến đấu. Thuyết tŕnh viên đă nói với Đại Tướng Ewell rằng sự chú trọng của Tướng Abrams vào công tác b́nh định nay đă hầu như thành tựu 100% với các kế hoạch tương quan. Quân Mỹ đă gần như rời khỏi việc hành quân”.

Những tin tức từ phía địch đă xác nhận thành quả. Trong một cuốn sách in bởi nhà Xuất Bản Thế Giới Hà Nôi, hai tác giả Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vơ đă viết, “cuối năm 1968 trong Nam Bộ các Ấp Chiến Đấu và những vùng xôi đậu đă bị quân đội Sài G̣n chiếm lại. Cuối 1968 chúng ta đă bị tổn thất nặng. Địch dồn lực lượng vào công tác b́nh định thôn quê gây cho chúng ta nhiều khó khăn trong hai năm 1969-1970. Từ khi quân Mỹ vào Việt Nam chúng ta chưa bao giờ gập nhiều vấn nạn như trong hai năm ấy. Các căn cứ của ta ở thôn quê bị suy nhược và vị trí co thắt lại. Quân ta bị tiêu diệt, không c̣n đất bám và phải qua đồn trú tại Cao Mên. Chúng ta trải qua một thời kỳ hết sức khó khăn trong những năm 1969-1970-1971. Kể từ giữa năm 1968 địch đă tập trung đánh phá các vùng giải phóng để tiêu diệt và đẩy chúng ta ra khỏi cứ địa”.68

Tháng Giêng 1972 Vann nói rằng “chưa bao giờ chúng ta phải tham chiến ít như bây giờ. Ngày nay thấy rơ các vùng quê phồn thịnh, đường xá khai thông, cầu kỳ mở lại và bạn có nhiều rủi ro hơn với cả đống Honda và Lambretta ngược xuôi. Chương tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh đă có kết quả ngoài tưởng tượng”.69 Đó là công đầu của Việt Nam Cộng Ḥa.

Phần 7 - Tổng Tấn Công Phục Sinh

Thành quả Việt-Nam-Hóa-Chiến-Tranh và việc b́nh định nông thôn khiến cho đối phương phải t́m một phương án khác. Đó là cuộc tấn công Phục Sinh. Douglass Pike viết: “Không c̣n là một cuôc chiến cách mạng nữa, và theo quan niệm của Vơ Nguyên Giáp th́ phải qua giai đoạn chiến tranh quy ước nhỏ giống như ở Triều Tiên”.70

Trong vài ngày về Mỹ John Paul Vann đă tŕnh bầy hiện t́nh Việt Nam trước một cử tọa giáo sư chọn lọc. “Họ dựa vào các giới chức dân cử xă ấp khi kinh tế tăng trưởng, an ninh tiến bộ và chiến tranh đă chuyển sang Cao Mên và Lào. Sự thực là 95% dân chúng muốn lưu giữ chính quyền hiện tại hơn là một chính phủ cộng sản hay một cơ cấu do bên kia đưa ra”.71

Theo lịch sử ghi chép của Quân Đội Nhân Dân th́ kế hoạch tấn công 1972 được chấp thuận bởi Ban Quân Ủy Trung Ương từ tháng Sáu 1971. Mục tiêu là chiến thắng vào năm 1972 làm cho quân Mỹ xâm lược phải thưong thảo trong thế yếu. Ông Pike diễn giải, “đó là một cuộc tấn công toàn diện với nhân lực, khí giới và tiếp vận quy mô. Vào giữa mùa Hè tất cả 14 Sư Đoàn Bắc Quân rời khỏi Bắc Việt. Chúng xử dụng nhiều thiếp giáp và đại pháo nặng hơn QLVNCH và đạn dược cũng không giới hạn”.72

Cuối tháng Ba 1972 địch tiến hành một cuộc xâm lăng cổ điển với 20 Sư Doàn và một trận chiến tàn bạo sắt máu đă xẩy ra. Ông Douglas Pike viết, “Cuộc tấn công được sửa soạn công phu đă bị bẻ gẫy v́ không yểm làm cho chúng không tập hợp được và v́ sư chống trả dũng cảm và kiên tŕ của quân Nam Việt. Bắc Quân và hệ thống giao thông của chúng đă bị triệt hạ nặng.73 Nhưng chính yếu là QLVNCH và cả Địa Phương Quân đă hiên ngang chống trả như chưa từng thấy”.

Bắc Quân tổn hại 100,000 người trong số 200,000 xung trận và có lẽ 40,000 đă bị giết. Họ đă mất già nửa thiết giáp và đại pháo. Sẽ cần ba năm để hồi phục trước khi tấn công lại và Tướng Vơ Nguyên Giáp bay khỏi chức Tổng Tư Lệnh. Trái lại Nam Quân mất 8,000 tử vong, gần ba lần thương binh và vào khoảng 3,500 mất tích. Tướng Giáp đă tính sai và phải trả một giá đắt cho lỗi lầm ấy. Ông Pike kết luận: “Giáp đă ước sai ḷng quyết tâm và sự chống trả mănh liệt của Quân Nam Việt. Hắn sai lầm về sức đề kháng của QLVNCH”.74

Về sau nhiều người chỉ trích nói rằng Nam Quân đă đẩy lui được Bắc Quân nhờ có không yểm của Mỹ.75 Tướng Abrams đă phản ứng mạnh mẽ và nói với các cấp chỉ huy của ông rằng, “Tôi không tin là không có không trợ mọi việc đă giữ vững được. Tuy nhiên phải có những người Việt Nam đúng thẳng chiến đấu. Nếu họ không dũng cảm làm như vậy th́ đến mười lần không quân cũng không chận đứng được bọn cộng sản”.76

Bọn chỉ trích cũng triệt hạ QLVNCH cho rằng họ sống sót được là nhờ Quân Mỹ. Không một ai nhớ rằng 300,000 Quân Mỹ phải đóng ở Tây Đức là v́ người Đức không thể chống lại Nga Xô Viết hay nhóm Liên Minh Warsaw nếu không có Quân Mỹ. Họ cũng quên là 50,000 Quân Mỹ phải lưu lại Nam Hàn để giúp trong trường hợp bọn Bắc tấn công. Và không ai đă nghĩ rằng v́ Quân Mỹ hiện diện nên phải chê bai và chế riễu Quân Đội Tây Đức cũng như Nam Hàn. Chỉ có Nam Việt bị tách rời ra để bôi nhọ một cách bất công và ác độc mặc dầu chỉ được không trợ chớ không được Quân Lực Mỹ hỗ trợ như Đức hay Cao Ly.

Quân Nam Việt đă thực sự đánh bại cuộc tấn công Phục Sinh 1972 với xương máu và ḷng quả cảm. Đại Tướng Abrams nói với Tổng Thống Thiệu rằng “nhờ khả năng bén nhậy của các cấp chỉ huy nên đă gặt hái thành quả và họ đă chứng tỏ đủ bản lĩnh đương đầu với cuộc thử thách.77 Những anh hùng bảo quốc Nam Việt đă giáng cho quân xâm lăng một đ̣n chí tử khiến cho chúng cần ba năm nữa mới có thể mở lại một cuộc tấn công quy mô”. Tuy nhiên trong khi ấy bao nhiêu thay đổi hệ trọng đă xẩy ra trên một b́nh diện rộng lớn hơn.

QLVNCH đă trở thành một lá chắn thiện nghệ, nhanh nhẹn và quyết tâm cho xứ sở của họ. Tuy nhiên họ đă bị bôi nhọ bởi những luận điệu tiêu cực gồm cả vu khống của bọn phản đối Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến hay ít nhất chính sự tham gia của cá nhân họ hay bọn thân cộng. Trái lại đă có bao nhiêu thành tích rơ ràng trên trân địa hồi cuối Xuân và trong mùa Hè 1972.

Phần 8 - Bỏ Rơi

Phần này bàn về t́nh h́nh sau khi Hiệp Định Paris được kư kết vào tháng Giêng 1973. Để dụ Việt Nam thỏa thuận điều mà họ cho là quá sai lầm khi cho Bắc Việt được để lại miền Nam một lực lượng lớn, Tổng Thống Nixon đă hứa với Tổng Thống Thiệu rằng nếu Bắc Việt bội ước và lại tấn công Nam Việt th́ Hoa Kỳ sẽ can thiệp mạnh mẽ để trừng phạt chúng. Và Nixon nói thêm, nếu chiến tranh trở lại, nước Mỹ cam kết thay thế các chiến cụ trên căn bản một đổi một theo như điều khoàn của Hiệp định Paris (chiến xa, trọng pháo vv). Sau nữa Hoa Kỳ sẽ tiếp tục viện trợ kinh tế tài chánh cho Việt Nam. Thật ra, Hoa Kỳ đă bội ước tất cả các khoản kể ra.

Trong khi ấy th́ Bắc Việt đă nhận viện trợ không tiền khoáng hậu của các quan thầy. Theo một cuốn sử xuất bản tại Hà Nội năm 1994 th́ trong ṿng chin tháng sau khi kư kết Hiệp Định Paris, từ tháng Giêng đến tháng Chín 1973, Bắc Việt đă gửi tiếp tế vào Nam bằng bốn lần năm vừa qua.78 Dầu vậy con số c̣n nhỏ nhoi so với lượng chúng đưa vào Nam từ đầu 1974 cho đến ngày chấm dứt cuộc chiến năm 1975. Trong ṿng mười sáu tháng, theo tài liệu cộng sản, th́ bằng 1.6 lần quân viện trong cả mười ba năm.79

Nếu chính phủ Nam Việt không kư Hiệp Định th́ không những Hoa Kỳ sẽ đơn phương tính với bên kia mà Quốc Hội Mỹ cũng nhanh chóng cắt hết viện trợ. Mặt khác nếu Việt Nam chấp thuận Hiệp Định với hy vọng sẽ tiếp tục nhận viện trợ Mỹ th́ họ bắt buộc phải chấp nhận t́nh trạng Bắc Quân sẽ trú đóng một cách nguy hiểm trên lănh thổ. Nam Việt đă quyết định phương án thứ nh́, một tiên liệu quyết tử để thấy một cách đau đớn là phải chấp nhận cả hai việc tồi nhất, quân Bắc Việt trong lănh thổ và viện trợ Mỹ chấm dứt.

Nguyên Tổng Trưởng Quốc Pḥng Melvin Laird giải thích hệ quả như sau. “Trong hai năm sau Hiệp Định, Nam Việt đă can đảm chống lại một cách đáng nể một địch quân được yểm trợ tối đa. Hoà đàm Bắc Nam vẫn tiếp tục cho đến ngày mà Quốc Hội cắt hẳn viện trợ vào năm 1975. Và Nam Việt nhanh chóng bị tràn ngập. Chúng ta đă tiết kiệm được khoảng 257 triệu mỗi năm và làm cho Nam Việt xụp đổ sau khi đă chiến đấu dũng mănh từ năm 1973 không có sư giúp đỡ của quân Mỹ.80

Nhiều người Mỹ không thích nghe rằng bọn độc tài Nga Xô và Trung Hoa đă tỏ ra đáng tin cậy hơn là nước Mỹ Dân Chủ. Nhưng đó là sự thật phũ phàng. Phóng viên William Tuohy đă nhiều năm phúc tŕnh cuộc chiến cho Washington Post viết, “Một chuyện không tin được và không tha thứ được là một đại cường quốc đă bỏ rơi đồng minh yếu kém vào tay bọn Bắc Cộng. Nhưng chúng ta đă làm như vậy”.81

Binh sỹ Nam Việt can đảm chiến đấu cho đến khi viện trợ bị cắt dần dần rồi ngưng hẳn. Trong ṿng hai năm sau khi kư Hiệp Định Paris Nam Việt đă mất 59,000 quân tức là nhiều hơn số quân Mỹ tử trận trong mười năm. Nếu nghĩ rằng dân số Nam Việt chỉ bằng một phần mười Mỹ Quốc82 th́ ta thấy rằng sư thiệt hại hết sức thảm khốc và cường độ trận chiến đă cao như thế nào.

Merle Pribbenow nhấn mạnh rắng sự ghi nhận của Bắc Việt cho thấy trong 55 ngày cuối cùng họ đă phải đương đầu với một chiến cuộc hết sức gay go. Đó là một chiến tích đáng ghi cho Nam Việt khi họ biết là kết cục sẽ chắc chắn như thế nào. Đại Tướng Bắc Quân Lê Trọng Tấn đă ghi, “Trong giai đoạn cuối cùng Quân Y của chúng ta đă phải di tản và chữa chạy cho quá nhiều thương binh, 15 lần nhiều hơn trong trận chiến biên giới, 1.5 lần hơn trận Điện Biên Phủ và 2.5 lần nhiều hơn trong trận Hạ Lào”. Pribbenow chiết tính là “Quân Đội Nhân Dân đă chịu tối thiểu từ 40,000 đến 50,000 thương binh và có thể c̣n nhiều hơn nữa, nghĩa là c̣n cao hơn tổng số tổn thất lúc QLVNCH xụp đổ theo nhận xét của các sử gia”.83

Đại Tá William LeGro đă ở lại DAO đến phút chót đă có một cái nh́n chính xác về sự việc. Ông nói: “Sự gỉảm quân viện Mỹ cho đến gần số không là lư do đưa đến sự xụp đổ cuối cùng”. Ông nói thêm, “Chúng ta đă làm một việc hết sức quái gở với người bạn Việt Nam”.84

Gần đến ngày cuối, ông Tom Polgar đứng đầu CIA Sài G̣n gửi một điện văn ngắn ngủi: “Kết quả quá rơ ràng v́ Nam Việt không thể sống sót nếu không có quân viện Mỹ trong khi khả năng chiến tranh của Bắc Việt vẫn giữ nguyên với sự trợ lực của Nga Xô Viết và Trung Cộng”.85

Sau chiến tranh t́nh h́nh trở nên quá đen tối như người ta sợ. Phóng viên Seith Adams của New York Times viết về hoàn cảnh Đông Nam Á một cách xác đáng và cảm động như sau. “Hơn một triệu người Nam Việt bỏ xứ. Khoảng 400,000 người bị đầy vào các trại cải tạo, một ít trong thời gian ngắn nhưng nhiều người đă bị giam giữ đến mười bẩy năm. Một triệu rưởi dân bị cưỡng bách đi các vùng ‘kinh tế mới là những nơi hoang dă trong hoàn cảnh đói kém và bệnh tật”.

Cựu Đại Tá Việt Cộng Phạm Xuân Ẩn mô tả sự vỡ mộng của y với kết quả chiến thắng của cộng sản đă áp đặt như thế nào lên xứ sở. Ông ta phàn nàn, “Tất cả các lư luận về ‘giải phóng’ trong hai mươi, ba mươi hay bốn mươi năm qua đă gây ra một xứ sở nghèo nàn và rách nát lănh đạo bởi một lũ ác độc, một bọn lư thuyết gia ít học và chuyên chế”.86

Đại Tá Bắc Quân Bùi Tín cũng thẳng thắn nói về hậu quả cho cả những người chiến thắng: “Thật là quá chậm cho thế hệ tôi, một thế hệ của chiến tranh, của chiến thắng và bội phản. Chúng tôi đă thắng nhưng chúng tôi cũng đă thua”.87

Sư cố gắng của những người miền Nam trong một cuộc tranh đấu dai dẳng cuối cùng là một thảm trạng. Quân đội đă mất 275,000 người chết trong khi chiến đấu. 450,000 dân bi hy sinh, phần đông do khủng bố cộng sản hoặc bị chết trong những cuộc pháo kích bừa băi vào các đô thị và thêm 935,000 người nữa bị thương.88

Trong số cả triệu người trở thành thuyền nhân một số có thể rất cao đă bỏ mạng trên biển cả. Có lẽ 65,000 người đă bị hành quyết bởi bọn tự xưng là giải phóng.89 Khoảng 250,000 hay hơn nữa đă chết trong các trại tù “cải tạo” man rợ. Hai triệu người bị đẩy ra khỏi quê cha đất tổ để trở thành một diaspora Việt Nam.90

Ta không thể hoàn toàn xác định giá trị của QLVNCH mà không nói đến các cựu chiến binh bị đầy khỏi xứ với các gia đ́nh của họ hầu lập nghiệp lại trên đất Mỹ.91 Đó chính là một câu chuyện khác về sự can đảm, quyết tâm và thành quả. Đă biết quá rơ tính chất của bọn mạo danh là “giải phóng”, một băng đảng luôn luôn giết hại, gây thương tích, bắt cóc và ức chế hàng ngàn dân vô tội, nên họ bỏ chạy hàng loạt khi sự chống đỡ tan ră.

May thay nhiều người đă thoát được đến bờ bến tự do làm lại đời mới. Mỹ Quốc may mắn đón nhận một triệu di dân Việt Nam là một tăng tiến cho văn hóa và một đóng góp đáng kể vào phúc lợi của chúng ta. Với một quyết tâm và cần cù không tưởng tượng được, những người Mỹ mới này đă dậy dỗ con cái, nuôi sống gia đ́nh và lợi dụng các cơ hội mà xứ sở này đă dành cho bất cứ ai tham gia vào xă hội. Đó chính là những người đă bao năm đem xương máu ra chiến đấu cho quê hương cũ trong hàng ngũ QLVNCH. Chúng ta đã bỏ rơi họ và những hy sinh của họ đă thành vô nghĩa. Tuy nhiên cưu mang họ trên đất này đă cho chúng ta đền tội đôi phần.

Kết Luận

Để kết luận, tôi chỉ xin nói rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến giá trị, bởi người Nam Việt và các đồng minh của họ bảo vệ một mục đích cao đẹp. Tất cả các chiến binh đều đă tham chiến với một tấm long vô biên và họ đă gần như đạt được mục đích bảo đảm cho NamViệt có tự do như một quốc gia độc lập. Có lần một phóng viên đă nhận xét rằng Đại Tướng Creighton Abrams phải được chỉ huy một cuộc chiến hay hơn. Tôi đă nói câu ấy cho trưởng nam của Tướng Abrahms và được phản hồi ngay; “Cha tôi không nh́n như vậy. Ông nghĩ rằng người Nam Việt rất xứng đáng”. Và tôi đồng ư.

Tóm lại, đối chiếu biểu của QLVNCH bao gồm cả địa phương quân và nghĩa quân trong năm 1970 rất tích cực. Rốt cục chúng ta đă không thắng trận, tuy nhiên tinh thần, sự tận tâm, can đảm và ḷng quyết chí của tất cả các chiến binh đă nẩy nở thăng hoa trên đất nước này. Chúng ta đều cùng tiến tới.


1 Douglas Pike, “Bibliography: Periodicals,” Indochina Chronology (April-June 1999), p. 1.
2 James Webb, “History Proves Vietnam Victors Wrong,” Wall Street Journal (28 April 2000).
3 Brigadier General James Lawton Collins, Jr., The Development and Training of the South Vietnamese Army, 1950-1972 (Washington: Department of the Army, 1975), p. 101.
4 Lieutenant General Fred C. Weyand, Senior Officer Debriefing Report, CG II Field Force, Vietnam, 29 March 1966 – 1 August 1968, MHI [U.S. Army Military History Institute] files.
5 Message, Abrams to Johnson, MAC 5307, 040950Z June 1967, CMH [U.S. Army Center of Military History] files.
6 Lieutenant General Duong Van Khuyen, RVNAF Logistics (Washington: U.S. Army Center of Military History, 1980), p. 57.
7 Time, 19 April 1968.
8 Letter, General Bruce C. Clarke to Brigadier General Hal C. Pattison, 29 December 1969, Clarke Papers, MHI.
9 As quoted in Joint Chiefs of Staff, The History of the Joint Chiefs of Staff: The Joint Chiefs of Staff and the War in Vietnam, 1960-1968, Part III (Washington: JCS Historical Division, 1 July 1970), p. 51-7.
10 Letter, General Bruce C. Clarke to Brigadier General Hal C. Pattison, 29 December 1969, Clarke Papers, MHI.
11 Brigadier General Zeb B. Bradford, Jr., Interview, 12 October 1989.
12 Message, Abrams to Wheeler and McCain, MAC 13555, 071007Z October 1968, CMH files.
13 William E. Colby, “Vietnam After McNamara,” The Washington Post (27 April 1995).
14 Ambassador Ellsworth Bunker, Thayer Award Address, West Point, New York, as printed in the Congressional Record (28 May 1970), p. E4732.
15 Ibid.
16 John Paul Vann, Remarks, Lexington, Kentucky, 8 January 1972, Vann Papers, Patterson School of Diplomacy and International Commerce, University of Kentucky, Lexington, Kentucky.
17 Message, Abrams to Wheeler and McCain, MAC 13555, 071007Z October 1968, CMH.
18 Brigadier General Tran Dinh Tho, The Cambodian Incursion (Washington: U.S. Army Center of Military History, 1979), p. 2.
19 Thomas Fleming, Society of the Cincinnati Lecture, Washington, D.C., 28 October 2005.
20 Anthony Joes, Resisting Rebellion (Lexington: University Press of Kentucky, 2004), p. 139. Joes cites as sources Bruce Catton, Glory Road, pp. 102 and 255, and Allan Nevins, The War for the Union: The Organized War to Victory, 1864-1865, p. 131.
21 John Keegan, The First World War (New York: Vintage Books, 2000), pp. 329-331.
22 Geoffrey Perret, There’s a War to Be Won (New York: Ivy Books, 1991), p. 453.
23 Ibid., p. 205.
24 Message, Cliff Snyder, National Archives, to Sorley, 20 May 2002: “We have 123 boxes of Awards to Vietnamese and Free World Military Forces, 1965-1970. We also have 62 boxes under Awards to Republic of Vietnam Armed Forces Personnel, 19711973. Lastly, we have the MACV general orders themselves, 48 boxes for 1964-1973. Each box may contain up to 1,000 pages.”
25 An example is Colonel Cau Le, regimental commander of the 47th ARVN Infantry Regiment, who spent a dozen years in combat and another thirteen years (five of them in solitary confinement) as a prisoner of the communists and was awarded the U.S. Silver Star and Bronze Star Medal for valorous combat leadership. Le and his family established a new life in America after his wife, Kieu Van, had worked as a nurse to support their five children until her husband’s release from captivity. See Robert F. Dorr and Fred L. Borch, “U. S. Medals,” Army Times (13 March 2006), p. 52.
26 General Cao Van Vien et al., The U.S. Adviser (Washington: U.S. Army Center of Military History, 1980), p. 142.
27 Lieutenant General Ngo Quang Truong, Territorial Forces (Washington: U.S. Army Center of Military History, 1978), p. 134.
28 Ibid., p. 34.
29 General Creighton Abrams at Weekly Intelligence Estimate Update, 18 April 1971, in Lewis Sorley, ed., Vietnam Chronicles (Lubbock: Texas Tech University Press, 2004), p. 592.
30 General Cao Van Vien, Leadership (Washington: U.S. Army Center of Military History, 1981), p. 170.
31 Joes, Resisting Rebellion, p. 138.
32 Vien, Leadership, p. 169.
33 Thomas Polgar, as quoted in J. Edward Lee and Toby Haynsworth, ed., White Christmas in April (New York: Peter Lang, 1975), p. 73.
34 Colonel William LeGro, as quoted in Lee and Haynsworth, White Christmas in April, p. 67.
35 Ambassador Ellsworth Bunker, Oral History Interview, Lyndon Baines Johnson Presidential Library, p. I:11.
36 Quoted in Jeffrey J. Clarke, Advice and Support: The Final Years (Washington: U.S. Army Center of Military History, 1988), p. 312.
37 As reported by Major General George I. Forsythe following a 20 January 1968 meeting with President Thieu, quoted in Clarke, Final Years, p. 307.
38 Joint Chiefs of Staff, The History of the Joint Chiefs of Staff, p. 52-43.
39 Notes by Vincent Davis of a telecon during which Vann described his 15 December 1969 presentation at Princeton, Vann Papers, Patterson School of Diplomacy and International Commerce, University of Kentucky, Lexington, Kentucky.
40 Lester A. Sobel, ed., South Vietnam: U.S.-Communist Confrontation in Southeast Asia, Volume 6: 1971 (New York: Facts on File, 1973), p. 211.
41 Remarks, Lexington, Kentucky, 8 January 1972, Vann Papers.
42 Ellsworth Bunker Interview, Duke University Living History Project, Durham, North Carolina, 2 March 1979.
43 Weekly Intelligence Estimate Update, 30 January 1971, in Sorley, Vietnam Chronicles, p. 525.
44 Ibid., COMUS Update, 16 February 1971, p. 535.
45 Ibid., COMUS Briefing with Admiral McCain, 19 February 1971, and Weekly Intelligence Estimate Update, 27 March 1971, pp. 535, 577. A number of years later Lieutenant General Sidney B. Berry wrote a Letter to the Editor of the Washington Post (18 May 1995) in which he said: “I was privileged to command the American helicopter force that supported Lam Son 719, and I directed the study and analysis of its helicopter support. Herein, I report the correct figures of American helicopters lost to hostile action during that operation.” Berry continued: “The U.S. Army’s after- action analysis shows that 107 helicopters were lost to hostile action during Lam Son 719. These losses occurred during 353,287 sorties and 134,861 flying hours.”
46 Ibid., COMUS Briefing with Admiral McCain, 19 February 1971, p. 537.
47 Ibid., Commanders Weekly Intelligence Estimate Update, 20 February 1971, pp. 538539.
48 Ibid., p. 542.
49 Ibid., COMUS Update, 24 February 1971, pp. 543-544.
50 Ibid., Lieutenant General Ewell Update, 16 March 1971, p. 562.
51 Ibid., COMUS Update, 4 March 1971, p. 551.
52 Ibid., COMUS Update, pp. 550-551.
53 Ibid., COMUS Update, p. 551.
54 Ibid., COMUS Update, pp. 557-558.
55 Ibid., Commanders Weekly Intelligence Estimate Update, 20 March 1971, pp. 564565.
56 Ibid., COMUS Update, 23 March 1971, p. 566.
57 Ibid., Weekly Intelligence Estimate Update, 27 March 1971, p. 577.
58 Message, Lieutenant General James W. Sutherland to Abrams, QTR 0567, 281140Z March 1971, Special Abrams Papers Collection, Carlisle Barracks, Pennsylvania.
59 Message, Lieutenant General James W. Sutherland to Abrams, QTR 0446, 211040Z March 1971, Special Abrams Papers Collection.
60 COMUS with Sir Robert Thompson, 25 March 1971, in Sorley, Vietnam Chronicles, p. 569.
61 Ibid., Secretary of the Army Brief, 26 April 1971, p. 608.
62 Ibid., COMUS with Sir Robert Thompson, 25 March 1971, p. 570.
63 Major General Nguyen Duy Hinh, Lam Son 719 (Washington: U.S. Army Center of Military History, 1979), p. 5.
64 Military History Institute of Vietnam, Victory in Vietnam, trans. Merle L. Pribbenow (Lawrence: University Press of Kansas, 2002), p. 29.
65 John P. Vann, Letter to Henry Cabot Lodge, 9 December 1969, Vann Papers.
66 Weekly Intelligence Estimate Update, 30 October 1971, in Sorley, Vietnam Chronicles, p. 686.
67 Message, Barnes to Weyand, PKU 0378, 100736Z March 1972, MHI files.
68 Luu Van Loi and Nguyen Anh Vu, Le Duc Tho-Kissinger Negotiations in Paris (Hanoi: World Publishing House, 1996), pp. 66-67.
69 Remarks, Lexington, Kentucky, 8 January 1972, Vann Papers. Vann suggested that, to put Vietnam in perspective, it was useful to know that during 1971 there were 1,221 U.S. servicemen killed in Vietnam and during the same year 1,647 people were killed in New York City.
70 Douglas Pike, “A Look Back at the Vietnam War: The View from Hanoi,” Paper Written for the Vietnam War Symposium, The Wilson Center, Washington, D.C., 7-8 January 1983, p. 17.
71 John Paul Vann, Remarks, Lexington, Kentucky, 8 January 1972, Vann Papers.
72 Military History Institute of Vietnam, Victory in Vietnam, p. 283.
73 Douglas Pike, “The View from Hanoi,” p. 17.
74 Douglas Pike, PAVN: People’s Army of Vietnam (Novato: Presidio Press, 1986), p. 225.
75 Douglas Pike, “The View from Hanoi,” p.17.
76 Commanders Weekly Intelligence Estimate Update, 22 April 1972, in Sorley, Vietnam Chronicles, p. 826.
77 Message, Abrams to Laird, MAC 04039, 020443Z May 1972, CMH files.
78 Military History Institute of Vietnam, Victory in Vietnam, p. 338.
79 Ibid., p. 350.
80 Melvin R. Laird, “Iraq: Learning the Lessons of Vietnam,” Foreign Affairs (November/December 2005), p. 26.
81 The Washington Post (28 December 1968).
82 James L. Buckley, “Vietnam and Its Aftermath,” in Anthony T. Bouscaren, ed., All Quiet on the Eastern Front (Old Greenwich: Devin-Adair, 1977), p. 84.
83 Merle L. Pribbenow, Message to Sorley, 1 May 2002. The estimates of wounded cited are from Lieutenant General Le Trong Tan, Several Issues in Combat Guidance and Command (Hanoi: People’s Army Publishing House, 1979), p. 353.
84 In Lee and Haynsworth, p. 67.
85 As quoted in Todd, Cruel April, p. 145.
86 Seth Mydans, “A War Story’s Missing Pages,” The New York Times (24 April 2000).
87 Vietnam Magazine (August 1990), p. 6.
88 The Boston Globe (30 April 2000).
89 Colonel Stuart Herrington, “Fall of Saigon,” Discovery Channel, 1 May 1995.
90 Douglas Pike, PAVN, p. 310n5.
91 Australian Minister for Immigration Michael MacKellar was quoted as saying that “about half the boat people perished at sea,” basing this conclusion on “talks with refugees and intelligence sources.” Thus, he said in 1979, “we are looking at a death rate of between 100,000 and 200,000 in the last four years.” The Age Newspaper, The Boat People: An Age Investigation (Middlesex: Penguin Books, 1979), p. 80. According to James Banerian, the International Red Cross estimated that 300,000 boat people perished in their attempts to reach safety. Losers Are Pirates, p. 2.

Lewis Sorley
(Bài giảng thuyết đọc tại the Vietnam Center Texas Tech University Lubbock, Texas ngày 17 tháng 3 năm 2006)
Trần Đỗ Cung lược dịch

NÓI VỀ TÁC GIẢ

Ông Lewis Sorley đă phục vụ tại Việt Nam chỉ huy một Tiểu Đoàn Thiết Giáp trên Tây Nguyên. Ông thuộc thế hệ thứ ba trong gia đ́nh tốt nghiệp Đại Học Quân Sự Hoa Kỳ. Ông cũng đậu bằng Tiến Sỹ của Đại Học John Hopkins. Trong hai thập niên binh nghiệp ông chỉ huy thiết giáp và nhiều đơn vị thiết kị tại Mỹ, Đức cũng như Việt Nam. Ông cũng đă phục vụ tại Bộ Lục Quân, văn pḥng Tham Mưu Trưởng Bộ Binh và là giảng viên tại West Point và Đại Học Chiến Tranh Bộ Binh.

Ông là tác giả của hai cuốn sách, Thunderbolt, General Creighton Abrams and the Army of His TimesGeneral Harold K. Johnson and the Ethics of Command. Ông đă viết quân sử nhan đề, A Better War; the Unexamined Victory and Final Tragedy of America’s Last Year in Vietnam. Ông cũng ghi chép và nhuận chính Vietnam Chronicles: the Abrams Tapes 1968-1972.

generalhieu